Mặc dù chỉ mới ba năm trôi qua kể từ khi bà Merkel rời nhiệm sở, nhưng thế giới đã thay đổi quá nhiều đến mức mà chức thủ tướng của bà đã được cảm thấy như nó thuộc về một thời đại khác. Cuốn hồi ký mới của bà cho thấy bà bình tâm với những quyết định đã đưa ra, bao gồm cả những quyết định bị phê phán nghiêm khắc nhất.
*
*
Tự do, cuốn hồi ký của cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel được háo hức mong đợi, đã xuất bản vào tháng trước với nhiều màn phô trương. Cùng với đồng tác giả là Beate Baumann, chánh văn phòng và người bạn tâm giao lâu năm của bà, cuốn sách mang lại một cái nhìn sâu xa về cuộc đời và sự nghiệp phi thường của bà Merkel và đã được dịch hơn 30 ngôn ngữ. Các buổi giới thiệu sách ở Berlin, London đã bán hết vé và ở Wahington do cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama tổ chức.
Người ta có thể tự hỏi liệu một chuyến đi phát hành sách thuộc loại cao cấp như vậy - thường dành cho các tổng thống Mỹ, không phải dành cho các cựu lãnh đạo của các cường quốc cỡ trung như Đức - có quá mức không. Rốt cuộc, hồi ký của các cựu Thủ tướng Anh Tony Blair và David Cameron, cũng như hồi ký của các cựu Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy và François Hollande. đã không thu hút được sự chú ý của quốc tế như vậy.
Phải thừa nhận rằng ở đỉnh cao danh vọng, bà Merkel không chỉ là chính trị gia có ảnh hưởng nhất châu Âu; sau khi Donald Trump thắng cử tổng thống Mỹ năm 2016, bà thường được gọi là "nhà lãnh đạo của thế giới tự do". Nhưng mặc dù mới rời nhiệm sở cách đây ba năm, thế giới đã thay đổi quá nhiều đến mức mà chức thủ tướng của bà đã được cảm thấy như nó thuộc về một thời đại khác. Đối với Đức, vài năm qua đang gặp phải nhiều thách thức quá đặc biệt. Một nền kinh tế chuyển đổi giữa suy thoái và trì trệ đã phơi bày hậu quả của nhiều thập niên thiếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nhà ở, giáo dục và số hóa. Lạm phát đã xói mòn tiền lương, nó làm trầm trọng thêm cho cuộc khủng hoảng về khả năng chi trả cho tiền nhà. Và dòng người nhập cư cao kỷ lục đã thúc đẩy cho sự bất mãn của công chúng lan rộng, nó cho phép cả phe cực hữu và cực tả đạt được những thắng lợi đáng kể trong các cuộc bầu cử.
Trong khi đó, cuộc xâm lược Ukraine năm 2022 của Nga nhấn mạnh đến sự thất bại về những nỗ lực được lặp đi lặp lại của bà Merkel trong việc làm xoa dịu Tổng thống Nga Vladimir Putin. Chỉ ngay sau cuộc xâm lược, người kế nhiệm bà, Olaf Scholz, đã tuyên bố một "sự thay đổi mang tính thời đại" (Zeitenwende) trong các chính sách quốc phòng và đối ngoại của Đức, đặc biệt là đối với Nga. Trong khoảnh khắc, thế giới mà Merkel giúp định hình đã biến mất.
Trong khi nhiều diễn biến xảy ra sau ngày bà Merkel rời nhiệm sở, bà đã để lại cho Scholz với nhiều vấn đề cần giải quyết. Ngược lại, bà Merkel thừa hưởng rất nhiều lợi từ những biện pháp cải cách thị trường lao động do người tiền nhiệm Gerhard Schröder đưa ra, đặc biệt là trong những năm đầu làm thủ tướng của bà. Mặc dù không được ưa chuộng vào thời điểm đó - và một phần chịu trách nhiệm cho chiến thắng của bà Merkel trong cuộc bầu cử năm 2005 - cái gọi là biện pháp cải cách mang tên Hartz đã đặt nền móng cho sự xoay chuyển kinh tế và củng cố tài chính của Đức, nó cho phép nước này trở thành một nền kinh tế mạnh nhất châu Âu vào giữa những năm 2010.
Không giống như Schröder, bà Merkel đã không đưa ra bất kỳ cải cách quan trọng nào của riêng mình, có thể vì - mặc dù là cần thiết - chúng mang lại những rủi ro chính trị đáng kể. Nhiệm kỳ của bà được đặc trưng bởi những biện pháp nhỏ, kỹ trị hơn là tham vọng lớn cho tương lai của Đức, ít hơn là của châu Âu. Là một nhà quản lý hơn là lãnh đạo có viễn kiến, bà Merkel phù hợp với sở thích của cử tri Đức, những người thường né tránh các chính trị gia lôi cuốn với các chương trình nghị sự táo bạo. Như cựu Thủ tướng Helmut Schmidt đã từng châm biếm: "Bất cứ ai có viễn kiến nên đi khám bác sĩ."
Từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác
Công bằng mà nói, bà Merkel đã dành phần lớn thời gian lúc tại chức, bắt đầu với phương cách xử lý khủng hoảng trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2008. Năm 2011, sau thảm họa hạt nhân Fukushima ở Nhật Bản, bà quyết định loại bỏ dần năng lượng hạt nhân - một quyết định gây tranh cãi đã gây ra tình trạng bất trắc đáng kể cho thị trường năng lượng Đức và châu Âu. Đồng thời, việc xử lý cuộc khủng hoảng nợ của bà Merkel và Bộ trưởng Tài chính Wolfgang Schäube đã gây phẫn nộ trên khắp châu Âu, đặc biệt là ở Hy Lạp, nơi hình ảnh bà với bộ ria mép Hitler phản ánh sự phẫn nộ lan rộng.
Để đối phó với việc Nga sáp nhập Crimea bất hợp pháp vào năm 2014, bà Merkel đã khởi xướng Thỏa thuận Minsk, vốn nghiêng nặng về phía Nga. Năm sau, bà cho phép hơn một triệu người di cư từ Trung Đông (chủ yếu là Syria), châu Phi và Trung Á vào Đức với sự giám sát tối thiểu - một cử chỉ nhân đạo dũng cảm cũng cung cấp một mảnh đất màu mỡ cho sự trỗi dậy của các phong trào dân tộc cực hữu mà từ lâu họ đã bị đẩy ra bên lề của chính trị Đức.
Sau đó, vào năm 2016, bà Merkel được uỷ nhiệm để xử lý các hậu quả chính trị và kinh tế từ cuộc trưng cầu dân ý Brexit của Vương quốc Anh và cuộc bầu cử của Trump, cả hai đều thể hiện cho những thách thức ngoại giao nghiêm trọng trong giai đoạn bất trắc sâu đậm cho tương lai của Liên minh châu Âu và các quan hệ Mỹ-Đức.
Trên hết, hai năm cuối cùng tại chức, bà đã bị lu mờ bởi trận đại dịch COVID-19. Ngoài tác động đến vấn đề y tế công cộng, đại dịch còn ảnh hưởng sâu xa đến xã hội, kinh tế và bối cảnh chính trị của Đức, với các lệnh phong tỏa và các phương thức an toàn khác làm cho sự thất vọng của công chúng gia tăng.
Sự lãnh đạo của bà Merkel trong những cuộc khủng hoảng này đã nâng cao vị thế trong nước và toàn cầu của bà. Đức đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 hầu như không bị tổn thương, và phương cách của bà đối với cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã tỏ ra có hiệu quả. Quyết định mở cửa biên giới của Đức cho hơn một triệu người tị nạn, mặc dù ngày nay không được ưa chuộng, nhưng vào thời điểm đó, nó đã nhận được sự khen ngợi rộng rãi của quốc tế. Bà Merkel cũng điều hướng những bất ổn do Brexit và cuộc bầu cử của Trump tạo ra một cách khá tốt. Và điều quan trọng là Đức đã xử lý cú sốc COVID-19 tốt hơn hầu hết các quốc gia.
Nhưng di sản của bà Merkel đã bị hủy hoại bởi một số sai lầm lớn, đặc biệt là việc bà hiểu sai tham vọng về chủ trương bành trướng của Putin và sự miễn cưỡng của bà trong việc thúc đẩy các cải cách rất cần thiết cho trong nước. Đáng chú ý là cuốn hồi ký của bà dành nhiều sự quan tâm đến Putin hơn bất kỳ nhà lãnh đạo nước ngoài nào khác. Bà tin tưởng mạnh mẽ rằng việc duy trì sự cam kết chính trị, kinh tế và văn hóa với Điện Kremlin và các nhà tài phiệt được yêu thích của họ sẽ cho phép bà xây dựng những nhịp cầu và kéo nước Nga đến gần phương Tây hơn.
Do đó, bà Merkel đã kiềm chế các biện pháp có thể làm suy yếu nỗ lực này hoặc khiêu khích Putin. Ví dụ, bà đã bỏ phiếu chống lại việc mời Ukraine và Georgia nộp đơn gia nhập khối NATO vào năm 2008 - bất chấp sự ủng hộ của Tổng thống Mỹ khi đó là George W. Bush - và đã nỗ lực rất nhiều để giữ cho Thỏa thuận Minsk tồn tại. Bà cũng giữ chi tiêu quốc phòng dưới ngưỡng 2% GDP của khối NATO, khiến Bundeswehr (Quân đội) của Đức bị suy yếu nghiêm trọng.
Có lẽ đáng chỉ trích nhất là bà Merkel đã ủng hộ việc lập đường ống Nord Stream 2, được cho là sẽ cung cấp khí đốt của Nga cho Đức qua Biển Baltic, thông qua Ba Lan và Ukraine, bất chấp việc Mỹ và các đồng minh NATO khác cảnh báo rằng điều này sẽ khiến Putin thậm chí còn nguy hiểm hơn. Bà bảo vệ quyết định của mình trên cơ sở kinh tế, lập luận rằng nó sẽ giảm chi phí năng lượng và tăng cường quan hệ giữa Đức và Nga.
Điều này đặt ra vấn đề: Làm thế nào mà bà Merkel có thể ngây thơ về Putin như vậy khi bà tỏ ra là một chính trị gia khôn ngoan trong rất nhiều lĩnh vực khác? Trong cuốn hồi ký của mình, bà tiếp tục đóng khung vấn đề Nord Stream 2 chủ yếu là một dự án kinh tế. Bất chấp gần ba năm Nga liên tục xâm lược ở Ukraine, bà vẫn kiên định với niềm tin rằng chủ trương Thay đổi thông qua thương mại (Wandel durch Handel) là phương cách tốt nhất, bà nhấn mạnh rằng không thể phớt lờ Nga cũng như áp dụng phương cách đối đầu.
Trong suốt 16 năm cầm quyền, cử tri Đức tin tưởng nơi bà Merkel, ngưỡng mộ tính cách kiên định, điềm tĩnh của bà giữa hàng loạt các cuộc khủng hoảng. Niềm tin nổi tiếng của bà là chúng tôi sẽ giải quyết được vấn đề, "Wir schaffen das", mà bà đã sử dụng để có hiệu quả vào đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng di cư năm 2015, nó đã trở thành biểu tượng cho phương cách thực dụng, không vô nghĩa của bà đối với tinh thần lãnh đạo và thông điệp công khai.
Tuy nhiên, giới chỉ trích tập trung vào xu hướng của bà Merkel là chỉ giải quyết các vấn đề sau khi phát sinh, thay vì thực hiện các biện pháp ngăn chặn. Họ chỉ ra một danh sách dài các cải cách quan trọng mà bà đã không theo đuổi khi còn đương nhiệm, từ cơ sở hạ tầng và giao thông công cộng đến giáo dục, nhập cư, hành chính công, an ninh trong nước và số hóa. Kết quả là Đức đã không chuẩn bị cho những thách thức trong tương lai.
Không hối tiếc
Vào cuối nhiệm kỳ thủ tướng của bà Merkel, thế giới dần thoát ra khỏi trận đại dịch, Đức dường như hoạt động tốt một cách đáng ngạc nhiên. Nhưng rõ ràng là giới hoạch định chính sách Đức đã ngủ quên trên chiến thắng quá lâu. Trong nhiều thập niên, như Constanze Stelzenmüller của Viện Brooking đã ghi nhận, Đức đã "giao chuyện xây dựng nguồn lực an ninh của mình cho Mỹ, giao việc tăng trưởng xuất khẩu cho Trung Quốc và giải quyết nhu cầu năng lượng cho Nga". Sau khi Putin xâm lược Ukraine, chiến lược này cho thấy đó là một tình trạng tổn thương nghiêm trọng.
Khi bước vào 25 năm sau của thế kỷ XXI, nước Đức thấy mình ở một vị trí bấp bênh. Với việc quản lý khủng hoảng liên tục, thiếu cải cách trong nước và chính sách đối ngoại ngây thơ, kỷ nguyên Merkel đã nhường chỗ cho chính phủ liên minh "đèn giao thông" của Scholz bị phân hoá và gây tranh cãi, chính phủ này đã sụp đổ vào tháng trước sau khi không điều chỉnh được hướng đi. Khi cuộc bầu cử tháng 2 năm 2025 đến gần, khả năng vượt qua tình trạng bất ổn hiện tại của đất nước là bất trắc nghiêm trọng.
Nhận thức rõ về những thách thức khó khăn trước mặt, bà Merkel dành các chương cuối của cuốn hồi ký cho các giải pháp tiềm năng. Trong số nhiều thứ khác, bà đề xuất cải cách việc phanh nợ, một giới hạn hiến định đối với chi tiêu thâm hụt mà nhiều nhà phân tích đổ lỗi cho việc Đức không đầu tư vào cơ sở hạ tầng, giáo dục và công nghệ kỹ thuật số. Bà cũng kêu gọi tăng chi tiêu quốc phòng lên hơn 2% GDP.
Mặc dù những khuyến nghị này hữu ích, nhưng vẫn chưa rõ lý do tại sao bà Merkel lại thay đổi quyết định, đặc biệt là khi bà đưa ra việc phanh nợ vào năm 2009 và khăng khăng giữ chi tiêu quân sự của Đức dưới mục tiêu 2%. Bà Merkel không đưa ra lời giải thích cho vấn đề này, cũng không bày tỏ sự hối tiếc về những quyết định trước đó.
Thực ra, bà Merkel tỏ ra yên tâm với di sản của mình. Những quyết định mà bà đưa ra khi nắm quyền - bao gồm cả những quyết định như Nord Stream 2, đã bị đánh giá nghiêm khắc trong những năm gần đây - vẫn có vẻ hoàn toàn hợp lý đối với bà khi bà nhìn lại. Nếu hy vọng là sẽ có một phân tích sâu sắc hơn, phê phán về nhiệm kỳ thủ tướng của bà Merkel, độc giả sẽ bị thất vọng. Không có lời tự thú nào thuộc loại tôi vô tội (mea culpa) được tìm thấy trong 720 trang hồi ký của bà, cũng như bất kỳ sự thừa nhận nào rằng những người khác - ví dụ, các chính quyền kế tiếp của Hoa Kỳ - có thể đã được biện minh trong việc thúc giục Đức tăng chi tiêu quốc phòng hoặc phản đối việc xây dựng Nord Stream 2.
Kết quả là lời tự sự của Merkel về sự nghiệp chính trị giống như một cuốn nhật ký trong công sở với chi tiết tỉ mỉ hơn là một hồi ký trung thực. Bà kể lại vô số cuộc họp và sự kiện bằng giọng điệu thực tế đặc trưng của mình, nhưng hiếm khi bà đưa ra được những chi tiết hoặc quan sát sắc bén có thể làm cho những khoảnh khắc này trở nên sống động và làm sáng tỏ việc ra quyết định của bà hoặc nhiều nhà lãnh đạo mà bà đã làm việc chung trong nhiều năm. Trong khi một số cuốn hồi ký thu hút được độc giả bằng những câu chuyện phiếm hoặc tiết lộ chuyện sau hậu trường, thì sách của bà Merkel không cung cấp được cả hai đặc điểm này.
Những gì cuốn sách Tự do mang lại là soi sáng một bức chân dung tự họa. Phần đầu tiên của cuốn sách là tiết lộ nhiều nhất cuộc đời của bà Merkel từ năm 1954 - khi bà được sinh ra - đến khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989. Với tựa đề "Tôi không được sinh ra là Thủ tướng", nó khám phá cách thức trưởng thành và giáo dục của bà Merkel đã ảnh hưởng đến quỹ đạo chính trị, nó cho phép bà trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Đức và tái đắc cử ba lần.
Hai cuộc đời của Angela Merkel
Đúng như hình thức, Merkel mở đầu cho lời nhập đề của mình bằng một nhận xét nổi bật: "Cuốn sách này kể một câu chuyện sẽ không xảy ra nữa, bởi vì đất nước mà tôi đã sống trong ba mươi lăm năm qua đã không còn tồn tại vào năm 1990."
Trải qua 35 năm đầu đời dưới chế độ độc tài Đông Đức, theo đuổi sự nghiệp khoa học trước khi trở thành nhà chính trị và lãnh đạo toàn cầu, cuộc đời của bà Merkel đã được đánh dấu bằng sự tương phản. Chính tính hai mặt này giải thích tại sao bà chọn tựa sách là Tự do. Như bà ghi nhận một cách hóm hỉnh, "Nếu sách mang lại cho một nhà xuất bản như một tác phẩm hư cấu, sách sẽ bị từ chối."
Bà Merkel sinh ra ở Hamburg, nhưng gia đình nhanh chóng chuyển đến Đông Đức, nơi thân phụ bà, một mục sư Tin lành, nhận được nhiệm vụ trong một giáo xứ nhỏ ở nông thôn. Trong khi ở Đông Đức tôn giáo bị gạt ra ngoài lề, nhà nước đã phải tranh đấu để làm thoả mãn nhiều nhu cầu xã hội, nên chế độ cho phép các tổ chức tôn giáo được cung cấp một số dịch vụ nhất định, mặc dù là tạm thời. Chúng bao gồm các cơ sở dành cho người khuyết tật và trẻ em gặp khó khăn trong học tập, công việc này thường được điều hành bởi các quỹ từ thiện liên kết với Giáo hội Tin lành ở Berlin-Brandenburg và được tài trợ bởi các khoản đóng góp của Tây Đức.
Một trong những tổ chức như vậy là Waldhof, một khu phức hợp tương đối lớn được bao quanh bởi các khu rừng và nằm cách Berlin 80 km về phía bắc, đó cũng là nơi toạ lạc trường cao đẳng mục vụ mà thân phụ của bà Merkel làm việc. Trong khung cảnh hẻo lánh và bình dị này, bà Merkel đã tận hưởng một tuổi thơ hạnh phúc và được bảo vệ. Bà tiếp tục học vật lý và sau đó làm việc cho Viện Hàn lâm Khoa học danh tiếng.
Ban đầu, bà Merkel tránh các hoạt động chính trị công khai và không tham gia vào các nhóm bất đồng chính kiến hoặc các nhóm đối lập ngầm. Mãi cho đến khi Bức tường Berlin sụp đổ, bà mới hoạt động chính trị, bà ủng hộ việc thúc đẩy cho một nước Đức thống nhất. Bà nhanh chóng gia nhập Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo (CDU) và trở thành người được Thủ tướng Helmut Kohl bảo trợ.
Mặc dù bà Merkel lớn lên trong môi trường Waldhof che chở là một khung cảnh hạnh phúc, nhưng bà nhận thức sâu xa đó là một môi trường mong manh trong bối cảnh của nước Đông Đức cộng sản. Nhận thức này được kết hợp với sự đào tạo khoa học nghiêm túc đã mang lại cho bà một niềm tin mạnh mẽ vào tính hợp lý và diễn ngôn dựa trên thực tế, những trải nghiệm này cùng kết hợp nhau đã giúp cho bà định hình bản sắc chính trị với tư cách là một nhà lãnh đạo có cơ sở, người luôn dựa vào lý trí và bằng chứng để hướng dẫn các quyết định của mình. Chính sự kết hợp của các đặc điểm này đã khiến cho bà đạt hiệu quả với tư cách là một người quản lý cuộc khủng hoảng.
Sự tương phản xác định cuộc đời của bà Merkel được thể hiện rõ ràng trong phần kết của cuốn sách. Bà hỏi: "Tự do có ý nghĩa gì đối với tôi? Vấn đề đó đã khiến cho tôi bận tâm trong suốt cuộc đời mình, cả ở mức độ cá nhân và chính trị." Một mặt, tự do có nghĩa là "tìm ra ranh giới của riêng tôi nằm ở đâu và đi đến những ranh giới đó." Mặt khác, đó là về việc "không ngừng học hỏi, không phải đứng yên, nhưng có thể tiếp tục, ngay cả sau khi rời khỏi chính trị."
Định nghĩa đầu tiên về tự do bắt nguồn từ cuộc đời đầu của Merkel: lớn lên trong một vùng đất Kitô giáo được che chở dưới chế độ độc tài và vươn lên trở thành thành viên của tổ chức học thuật hàng đầu ở Đông Đức. Đó là câu chuyện về một nhà khoa học được thúc đẩy bởi sự tò mò, háo hức thực hiện những khám phá mới. Định nghĩa thứ hai là nắm bắt được vòng cung của cuộc đời sau năm 1990: một người ngoài cuộc táo bạo đến từ một đất nước đã không còn, người đã trở thành nhà lãnh đạo của một trong những nền dân chủ lớn nhất thế giới. Trong vòng vài năm ngắn ngủi, bà lật đổ Kohl - người từng gọi bà là Mein Mädchen ("con gái của tôi") - và đảm nhận vai trò lãnh đạo của CDU.
Trên hết, đó là câu chuyện về một người đã tận dụng tối đa những gì mà nền dân chủ mang lại. Sự vươn lên đỉnh cao trong nền chính trị Đức của bà Merkel là đáng chú ý không chỉ vì cái mà bà gọi là "hai cuộc đời", mà còn vì khả năng kết hợp hai hình thức tự do - của một nhà khoa học và của một chính trị gia - thành một triết lý lãnh đạo riêng biệt.
Tự do có thể thiếu phần phân tích tự phê bình mà một số độc giả có thể mong đợi, nhưng nó cung cấp một cái nhìn thoáng qua về tâm trí của một nhà chính trị đáng chú ý. Là con gái của một mục sư ở Đông Đức và là một "người phương Đông" trong giới tinh hoa của Tây Đức, bà Merkel đã phải vượt qua những định kiến đã ăn sâu. Những thách thức này giúp giải thích cách mà bà đã chịu đựng lâu như vậy với tư cách là thủ tướng.
Tuy nhiên, vấn đề trọng đại vẫn chưa được trả lời: Nhiệm kỳ của Merkel sẽ được ghi nhớ như thế nào? Mặc dù bà có thể sẽ được tôn vinh như một nhà quản lý có hiệu quả, người đã lèo lái Đức và châu Âu vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng, nhưng di sản của bà sẽ được nhuốm màu bởi những thất bại trong chính sách đối nội và đối ngoại.
Tuy nhiên, mặc dù bà không phải là một nhà lãnh đạo có viễn kiến cũng không phải là một nhà lãnh đạo có sức thu hút thần bí, bà Merkel là một người hoàn toàn phù hợp với nước Đức vào một thời điểm quan trọng trong lịch sử của nước này. Trong thời đại của các nhà lãnh đạo ngày càng hung hăng, phân cực, phong cách khiêm tốn của bà có thể sớm được nhắc đến.
– Helmut K. Anheier
Đỗ Kim Thêm dịch
Gửi ý kiến của bạn