Hôm nay,  

Truyền Thông Công Cộng: Tự Do Báo Chí Là Phần Hồn Của Nền Dân Chủ

01/08/202500:00:00(Xem: 875)

Tu Do
Quốc Hội Hoa Kỳ đang đối mặt làn sóng chỉ trích sau khi hủy bỏ 1.1 tỷ MK ngân sách dành cho CPB. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các đài phát thanh, truyền hình công cộng như PBS và NPR không phải là công cụ tuyên truyền mà là mô hình truyền thông độc lập giúp công dân hiểu biết và hành động đúng đắn. (Nguồn: pixabay.com)

Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.
 
Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.
 
Từ thời phong trào dân quyền, cáo buộc giới truyền thông theo khuynh hướng cấp tiến luôn là điệp khúc quen thuộc từ phe bảo thủ. Khi đó, người da trắng ở miền Nam khẳng định rằng báo chí đã bóp méo tin tức để chống lại chính sách phân biệt sắc tộc.
 
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1964, TNS Barry Goldwater (Arizona) cũng phàn nàn rằng truyền thông báo chí không công bằng với ông. Và kể từ đó, gần như ứng viên nào của Đảng Cộng Hòa cũng đều lặp đi lặp lại luận điệu ấy.
 
Tuy nhiên, những cáo buộc đó hầu như chỉ là “nói không có sách, mách không có chứng.

Là người đứng đầu một viện chính sách công tại Đại học Boise State, Stephanie Martin (Giáo sư danh dự Frank và Bethine Church phụ trách Quan hệ Công chúng, Đại học Bang Boise) đã dành nhiều năm theo đuổi mục tiêu xây dựng một nền dân chủ dựa trên đối thoại tích cực (deliberative democracy). Bà là tác giả của hai cuốn sách nói về truyền thông và tổng thống Hoa Kỳ, cùng một cuốn khác nói về đạo đức nghề báo. Nghiên cứu của Martin cho thấy báo chí định hình xã hội như thế nào, và vì sao nền dân chủ chỉ phát triển khi có một nền truyền thông độc lập, không bị thị trường hay phe phái thao túng.
 
Ở Hoa Kỳ, quyền tự do ấy được bảo vệ bởi Tu Chính Án Thứ Nhất (First Amendment), cho phép báo chí chất vấn chính quyền, vạch trần những hành vi lạm quyền và giữ vững các nguyên tắc dân chủ.
 
Truyền thông công cộng có theo hướng thiên tả hay không?
 
Ad Fontes Media là một tổ chức vô vụ lợi, chuyên đánh giá mức độ tin cậy và thiên vị của các kênh truyền thông. Theo bảng xếp hạng của họ, chương trình PBS NewsHour chỉ lệch nhẹ 10 điểm về phía cấp tiến so với trục trung dung tư tưởng. Chương trình này được đánh giá là “đáng tin cậy” và “dựa trên phân tích/sự thật.” Trong khi đó, chương trình Fox and Friends của Fox News lại nghiêng hẳn về phía bảo thủ, lệch gần 20 điểm về bên phải.
 
Thang điểm mà Ad Fontes sử dụng bắt đầu từ số 0 (trung dung), kéo dài đến 42 điểm về phía bên trái (cấp tiến) và 42 điểm về phía bên phải (bảo thủ). Để đảm bảo tính khách quan, các đánh giá này được thực hiện bởi các nhóm ba người đại diện cho ba khuynh hướng: thiên tả, trung dung và thiên hữu.
 
Một nghiên cứu đăng trên Science Advances năm 2020, đã theo dõi hơn 6,000 nhà báo chính trị và kết luận “không tìm thấy dấu hiệu truyền thông thiên vị phe cấp tiến” trong cách lựa chọn tin, bài (dù phần đông nhà báo có tư tưởng theo hướng cấp tiến hơn so với mặt bằng chung người dân).
 
Tương tự, một nghiên cứu khác đăng trên Public Opinion Quarterly năm 2016 cho thấy các cơ quan truyền thông lớn không khác nhau nhiều về mặt loan tin. Trừ các vụ bê bối chính trị ra, “đa số hãng tin lớn loan tin khá công tâm, không thiên vị, không đặc biệt ưu ái hay hạ thấp bất kỳ đảng phái nào.
 
Theo cuộc thăm dò toàn quốc công bố ngày 14 tháng 7 năm 2025, tập trung vào các cử tri có thể đi bầu, 53% số người tham gia tin rằng truyền thông công cộng đưa tin “đầy đủ, chính xác và công bằng,” trong khi chỉ có 35% cảm thấy tin tưởng vào giới truyền thông nói chung. Đặc biệt, phần lớn người tham gia khảo sát đều phản đối việc ngừng cấp ngân sách liên bang cho các hãng truyền thông công cộng.
 
Trái ngược với niềm tin công chúng ở Hoa Kỳ là tình hình tại Hungary và Ba Lan, nơi chính phủ kiểm soát phần lớn nội dung của các đài truyền hình công cộng như MTVA và TVP. Tại Hungary, các cuộc biểu tình ở Budapest vào tháng 10 năm 2024 thu hút hàng ngàn người yêu cầu chấm dứt các chương trình sặc mùi “tuyên truyền.” Theo phúc trình của Viện Nghiên Cứu Báo Chí Reuters (Oxford), TVP hiện là đài truyền hình có mức độ tín nhiệm thấp nhất ở Ba Lan.
 
Một số người thường đánh đồng giữa phát thanh truyền hình công cộng Hoa Kỳ với các hãng tin nhà nước, nhưng thật ra cấu trúc và phương thức hoạt động của hai hệ thống này hoàn toàn khác nhau.
 
Quyền tự do biên tập: “công cộng” khác xa “nhà nước”
 
Tại các quốc gia có hệ thống truyền thông do nhà nước kiểm soát, chính phủ trực tiếp chọn biên tập viên, chỉ đạo nội dung loan tin và cấp ngân sách. Chính quyền quyết định điều gì “nên cho lên sóng,” điều gì thì “không nên,” và nếu không thích, họ ngừng rót tiền. Nói cách khác, các nhà đài tồn tại chỉ để làm vừa lòng giới cầm quyền.
 
Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (CPB) là một tổ chức vô vụ lợi tư nhân, được pháp luật bảo vệ nghiêm ngặt, ngăn ngừa mọi sự can thiệp từ các phe phái chính trị.
 
Hơn 70% trong tổng ngân sách 1.1 tỷ MK mà chính phủ phân bổ cho CPB trong năm 2025 được chuyển trực tiếp đến khoảng 1,500 đài địa phương, phần lớn là các đài liên kết với PBS hoặc NPR, số còn lại là đài độc lập. Trụ sở chính của CPB chỉ giữ lại khoảng 5% số tiền này.
 
Các đài không sống dựa vào một nguồn thu duy nhất. Họ hoạt động bằng cách kết hợp khoản tài trợ liên bang với nguồn thu từ thính giả đóng góp, tài trợ dạng underwriting của các công ty, xí nghiệp và các quỹ. Nhờ đó mà các đài có thể đứng vững mà không bị chi phối bởi một nguồn tiền duy nhất. Điều này rất quan trọng để giữ cho nội dung họ đưa ra là công bằng và không thiên vị bên nào.
 
Mặc dù có chia sẻ nội dung với nhau, mỗi đài vẫn được quyền tự quyết về chương trình và bản tin của mình, đặc biệt là tại địa phương. Với phương thức hợp tác công – tư, hệ thống phát thanh truyền hình công cộng phần lớn thuộc quyền sở hữu của các cộng đồng địa phương. Quốc Hội cấp ngân sách, nhưng các tổ chức vô vụ lợi, hội đồng đại học, chính quyền tiểu bang, đơn vị địa phương mới là nơi trực tiếp điều hành các đài. Những người trả tiền hàng tháng được gọi là hội viên, và đôi khi họ còn có quyền biểu quyết trong các quyết sách nội bộ. Phần lớn doanh thu của các đài đến từ những đóng góp của hội viên; nhờ đó, họ có thể giữ vững lập trường độc lập và khách quan khi chọn lựa và loan tin.
 
Truyền thông công cộng và nền dân chủ lành mạnh
 
Vậy, ngoài tính độc lập, truyền thông công cộng còn mang lại những giá trị nào khác?
 
Theo phúc trình năm 2021 của Liên Hiệp Phát Thanh Truyền Hình Âu Châu (European Broadcasting Union), những nước có hệ thống phát thanh truyền hình công cộng độc lập và mạnh mẽ thường có tỷ lệ cử tri đi bầu cao hơn, người dân hiểu rõ sự thật và ít bị ảnh hưởng bởi các luận điệu cực đoan.
 
Các chuyên gia cảnh báo rằng ngay cả những khoản cắt giảm nhỏ cũng sẽ làm trầm trọng thêm vấn nạn thông tin sai lạc tại Hoa Kỳ, bởi người dân bị mất đi nguồn thông tin miễn phí giúp nâng cao khả năng đọc tin tức một cách sáng suốt (media literacy) và tạo dựng cầu nối giữa các cộng đồng khác nhau.
 
Có thể nói, truyền thông công cộng chính là không gian công cộng còn lại cuối cùng: nơi thông tin vừa miễn phí, vừa độc lập, khách quan, không bị chi phối bởi quảng cáo.
 
Theo nghiên cứu do Trường Truyền Thông Annenberg thuộc Đại học Pennsylvania công bố vào năm 2022, nước nào có hệ thống phát thanh truyền hình công cộng độc lập, được cấp ngân sách đầy đủ, thì nền dân chủ ở đó cũng vững mạnh hơn.
 
Nghiên cứu còn chỉ ra rằng truyền thông công cộng có thể gắn kết những nhóm người có tư tưởng trái ngược, giúp họ hiểu nhau hơn. Trong khi truyền thông thương mại thường chạy theo lợi nhuận, loan tin giật gân, gây tranh cãi, thì truyền thông công cộng lại ưu tiên việc loan tin trung thực, mang đến nhiều góc nhìn khác nhau, và khuyến khích thảo luận với sự tôn trọng lẫn nhau. Các bản tin không ngắn gọn qua loa mà thường dài hơn (vì phân tích kỹ hơn).
 
Cách làm báo như thế rất quan trọng trong tình hình hiện nay, khi mà các “bong bóng tin tức” (news bubbles, tức là người xem chỉ tiếp xúc với thông tin cùng chiều với quan điểm của mình) ngày càng phổ biến trên mạng xã hội và truyền hình. Sự hiện diện của truyền thông công cộng chính là liều thuốc để giảm chia rẽ chính trị và chống lại thông tin sai lạc.
 
Tóm lại, chính vì có cấu trúc đặc biệt và sứ mệnh rõ ràng nên truyền thông công cộng góp phần làm cho nền dân chủ ở Hoa Kỳ (và nhiều nơi khác) trở nên lành mạnh hơn. Truyền thông công cộng luôn ưu tiên vào giáo dục và nâng cao dân trí, giúp người dân hiểu rõ các vấn đề xã hội phức tạp để có thể đưa ra những quyết định sáng suốt, dù đó là chuyện bầu ai làm lãnh đạo hay chọn ủng hộ chính sách nào. Giữ gìn và phát triển hệ thống các đài phát thanh truyền hình công cộng không chỉ giúp bảo vệ sự phong phú, đa dạng trong truyền thông mà còn góp phần thúc đẩy những giá trị cốt lõi của nền dân chủ.
 
Nếu Quốc Hội cắt giảm ngân sách cho truyền thông công cộng, điều đó sẽ khiến tiếng nói của báo chí tự do bị thu hẹp cả về nội dung lẫn số lượng. Cố Tổng Thống Ronald Reagan từng khẳng định rằng một nền báo chí tự do là yếu tố quan trọng để nước Mỹ thành công trong “thử nghiệm cao cả về nền dân chủ tự trị.” Từ góc nhìn đó, phương thuốc hữu hiệu nhất để xoa dịu mọi nỗi lo ngại về các luồng tin tức tuyên truyền đảng phái hiện nay là tăng cường tiếng nói của báo chí độc lập – chứ không phải nhăm nhe “bịt miệng” họ.
 
Cung Đô biên dịch 
Nguồn: “PBS and NPR are generally unbiased, independent of government propaganda and provide key benefits to US democracy” được đăng trên trang TheConversation.com. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.