Hôm nay,  

Xung Đột Vì Dầu Hỏa

3/15/200500:00:00(View: 14754)
Tuần qua, khi giá dầu thô mấp mé đỉnh 55 đô/thùng và nạn hải tặc dồn dập xảy ra tại eo biển Malacca, thì mâu thuẫn bất ngờ lại bùng nổ giữa Indonesia và Malaysia về quyền khai thác dầu khí ngoài khơi. VN sẽ ra sao"
Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ đề cập tới mâu thuẫn, thậm chí nguy cơ xung đột, liên hệ đến chủ quyền và dầu khí tại vùng Đông Á, qua cuộc phỏng vấn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện như sau.
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, hôm Thứ Sáu 11, quan hệ giữa Indonesia và Malaysia bỗng căng thẳng khi Ngoại trưởng Malaysia tuyên bố là hai nước có thể lâm chiến vì mâu thuẫn liên hệ đến một giếng dầu ngoài biển. Câu hỏi đáng chú ý cho toàn vùng và cho cả Việt Nam là dầu khí có thể là đầu mối tranh chấp hay xung đột tại Đông Nam Á không"… Xin ông trước hết cho thiùnh giả biết về bối cảnh của vấn đề ấy.
-- Vụ tranh chấp manh nha từ lâu và hôm 16 Tháng Hai đã thành vấn đề nóng khi quốc doanh dầu khí Malaysia là Petronas cùng tổ hợp Royal/Dutch Shell ký hợp đồng liên doanh sản xuất giếng dầu Ambalat ngoài biển Sulawesi, gần tỉnh East Kalimantan của Indonesia và gần bang Sabat của Malaysia. Phía Indonesia xác nhận đấy là giếng dầu của họ mà từ tháng 12 năm ngoái đã ký hợp đồng cho phép tập đoàn Unocal khai thác.
Quan hệ đôi bên thêm căng thẳng hôm mùng hai, khi Indonesia cho chiến hạm và chiến đấu cơ F-16 tới vùng ấy, nơi hải đội Malaysia đang tuần duyên. Lãnh đạo hải quân Jakarta còn tuyên bố là Indonesia "không để mất một tấc đất hay một giọt nước biển vào tay ngoại bang" và khi biểu tình chống Malaysia đã diễn ra tại Indonesia. Thực ra, từ vài năm nay, quan hệ giữa Jakarta và Kuala Lumpur suy đồi vì Malaysia truy lùng di dân lậu để kiếm việc tại Malaysia - đa số là dân Indonesia - và vì Jakarta đòi chủ quyền trên hai đảo nhỏ là Sipadan và Ligitan mà Malaysia nói là của mình.
Vì vậy, sau ba ngày thăm viếng Jakarta và gặp cả Tổng thống Indonesia, hôm 11 vừa qua, Ngoại trưởng Syed Hamid Albar nói đến nguy cơ chiến tranh vì giếng dầu ngoài biển. Dù ta khó tin là hai bên sẽ lâm chiến và bề nào sẽ còn gặp nhau thảo luận vào hai ngày 22-23 tới đây, mâu thuẫn này cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của dầu khí trong quan hệ giữa các nước, và khiến ta liên tưởng đến trường hợp của Việt Nam.
Hỏi: Đào sâu về vụ tranh chấp, xin ông cho biết thêm về hồ sơ này, chứ chẳng lẽ hai sáng lập viên của Hiệp hội ASEAN lại có thể xung đột vì một giếng dầu"
-- Đây là hồ sơ sâu xa từ gần hai chục năm trước. Malaysia phân định chủ quyền ngoài khơi bằng cách vạch ra từ thềm lục địa, còn Indonesia thì đòi chủ quyền theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển; hai lối tính lãnh hải ấy đã trùng nhau trên một khu vực xác định là có dầu khí, trong đó có bloc dầu Ambalat. Đó là chuyện xa. Chuyện gần là năm 1999 tập đoàn Royal/Dutch Shell ký hợp đồng với Indonesia để khai thác giếng ấy; khi thấy không có lợi thì năm 2001 họ bán lại quyền đó cho một tổ hợp Ý Đại Lợi. Bây giờ, sau khi cho Unocal khai thác thì Indonesia có cảm tưởng là Royal/Dutch Shell lấy lại hồ sơ kỹ thuật của dự án cũ đã làm với mình còn Malaysia thì đổi tên giếng dầu này để xoá vết tích cũ. Sự nghi ngờ là yếu tố tâm lý trong hoàn cảnh hai chính quyềøn đang có nhu cầu củng cố thế lực chính trị ở bên trong.
Hỏi: Trong khi đó, dầu khí đang trở thành nhu cầu sinh tử cho khu vực"
-- Vâng, bao trùm lên tất cả, là Á châu đang có yêu cầu lớn về dầu khí. Khu vực này có bốn nước sản xuất dầu khí đáng kể là Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Brunei. Còn Việt Nam, với trữ lượng khoảng 600 triệu thùng và nhật lượng dưới 350.000 thùng mỗi ngày thì chưa đáng kể. Cả khu vực chỉ có Brunei và Malaysia là dư dầu xuất khẩu, chừng gần triệu thùng một ngày; còn lại, tất cả - kể cả Indonesia từ 2004 - đều phải nhập. Nhiều nhất, lên tới 14 triệu thùng một ngày là của Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Nam Hàn và Đài Loan. Khi giá dầu tăng vì số cầu rất lớn thì một số giếng dầu tưởng là có năng suất kém cũng thành hấp dẫn, chưa kể là tiến bộ kỹ thuật ngày nay cho phép cải tiến việc đào dầu ngoài khơi. Trong bối cảnh ấy, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Đông Nam Á được xác định là có tiềm năng về dầu khí, cả dầu thô lẫn khí đốt. Ngoài ra, đây lại là trục vận chuyển hàng hóa từ Âu châu, Ấn Độ dương và Úc châu lên Đông Bắc Á, nên trở thành mối quan tâm cho ngần ấy quốc gia trong khu vực, từ Nhật, Úc, đến Trung Quốc, Hoa Kỳ lẫn Ấn Độ, như hai vụ hải tặc vừa xảy ra hôm cuối tuần và hôm Thứ Hai đã cho thấy.
Hỏi: Và ta trở lại một mâu thuẫn khác trong vùng liên hệ đến dầu khí và Việt Nam. Đó là tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
-- Tháng 11 năm ngoái, ta đã đề cập tới hồ sơ này khi Bắc Kinh đưa dàn khoan từ Thượng Hải xuống khai thác dầu ngay trên vùng quần đảo Hoàng Sa, tại một vị trí cách bờ biển Việt Nam chưa đến 120 cây số, cách đảo Hải Nam 123 cây số. Sau đó là vụ hải quân Trung Quốc sát hại chín ngư phủ Việt Nam ngoài khơi Thanh Hóa. Trước đó, đầu tháng Chín có vụ Bắc Kinh thỏa thuận cùng khai thác với Philippines dầu khí trên quần đảo Trường Sa, một thỏa thuận mà Hà Nội phản đối, cũng một cách yếu ớt và sau cũng đành theo. Trung Quốc cưỡng đoạt của Việt Nam, thời Việt Nam Cộng Hòa, quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, hai lần xung đột với Việt Nam tại Trường Sa, năm 1988 và 1992, lần nào Việt Nam cũng bại, chưa nói đến chiến tranh năm 1979. Việt Nam nay đã khác, chính quyền chỉ có cái thế với dân đen, chứ với bên ngoài thì không đáng kể. Trong khi yêu cầu về năng lượng lẫn tham vọng trở thành cường quốc đại dương khiến Bắc Kinh gây sức ép cho Việt Nam mà giới lãnh đạo Hà Nội tránh nói đến, chỉ ca tụng quan hệ dù sao vẫn hữu nghị giữa hai nước.

Hỏi: Nhìn vào khía cạnh kinh tế, thì năng lượng là vấn đề như thế nào với Trung Quốc mà có thể thành đầu mối tranh chấp thậm chí xung đột với các lân bang"
-- Trung Quốc là xứ "tân tòng" theo kinh tế thị trường, có hiệu năng tiêu thụ năng lượng kém nên cần nhiều năng lượng, như dầu hỏa, khí đốt và than đá, thủy điện, để nuôi bộ máy sản xuất. Như trong hai năm 2002 và 2003, khi yêu cầu năng lượng của cả Á châu tăng gấp đôi thì Trung Quốc tăng gấp bảy, mỗi ngày cần năm triệu rưởi thùng dầu thô, nên năm 2003 phải nhập khẩu hơn 730 triệu thùng. Yêu cầu này sẽ còn tăng, bộ Năng lượng Mỹ dự phóng là 20 năm nữa, đến năm 2025 Trung Quốc cần 11 triệu thùng mỗi ngày, sẽ cần nhập bảy triệu rưởi thùng mỗi ngày mới đủ. Từ hai năm nay, Trung Quốc bung ra khắp nơi, mở chiến dịch vận động ngoại giao và ký mấy chục hợp đồng để bảo đảm nguồn cung cấp cho tương lai…
Khi nhìn vào sản lượng thấp của Việt Nam hiện nay, họ thấy trữ lượng dầu thô ngoài Đông hải, mà họ gọi là Nam Hải, thực ra hấp dẫn hơn. Vì trực tiếp khai thác được, mà lại còn có thể khống chế luồng giao lưu hàng hóa tại Đông Nam Á để giữ ưu thế trong toàn khu vực Đông Á. Và họ lại có quan hệ khá đặc biệt với giới lãnh đạo Hà Nội.
Hỏi: Nhưng, lập trường của Đông Nam Á và khối ASEAN ra sao đối với vấn đề ấy"
-- Hiệp hội ASEAN quy tụ 10 xứ Đông Nam Á thực ra chỉ là câu lạc bộ làm ăn, chứ bất lực về an ninh hay chiến lược mà cũng chẳng có được sự nhất trí tối thiểu. Mâu thuẫn giữa các nước sáng lập với nhau là một thí dụ. Malaysia có mâu thuẫn với Thái Lan vì chính sách đối xử với người Hồi giáo tại các tỉnh miền Nam của Thái; Indonesia mâu thuẫn với Malaysia vì di dân lao động và vì giếng dầu ngoài biển như ta vừa nói. Các hội viên lại có quy tắc không xen lấn vào chuyện nội bộ của nhau, như không đồng ý với nhau về nạn độc tài tại Miến Điện và gặp mâu thuẫn với Âu châu. Nhờ vậy, Bắc Kinh dễ "bẻ đũa từng chiếc" để chia rẽ các nước qua thỏa ước song phương, như đã có với Philippines hay với Thái, Miến Điện và ba nước Việt, Miên, Lào về sông Mekong.
Hỏi: Đó là nhược điểm của ASEAN, còn sách lược của Trung Quốc thì ra sao"
-- Tôi xin tự giới hạn vào phạm vi dầu khí. Nói về tranh chấp Trường Sa mà quốc tế gọi là Spratly, ta có sáu nước đòi chủ quyền từng phần hay toàn phần, là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei. Malaysia tránh đụng độ từ đầu; còn Philippines thì sau khi xung đột với Bắc Kinh và cầu cứu Hoa Kỳ, cuối cùng lại thoái bộ. Mùng hai tháng Chín năm ngoái, Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo gặp Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tại Bắc Kinh và hai nước ký kết một số thỏa ước liên hợp tìm kiếm và khai thác dầu khí tại đây. Sau khi phản đối Bắc Kinh và Manila, cuối cùng Việt Nam cũng bọc xuôi theo vì hôm 13 vừa qua, ba công ty quốc doanh về dầu khí của Trung Quốc, Philippines và Việt Nam lại thỏa thuận cùng hợp tác kỹ thuật để thăm dò địa chất trên vùng quần đảo Trường Sa. Ta cần thấy rằng 5-10 năm tới, quốc doanh dầu khí Trung Quốc đã có trình độ công nghệ cao hơn, Hải quân Trung Quốc cũng đã có sức mạnh khác. Lúc ấy, Bắc Kinh có thể dẹp luôn các thỏa thuận song phương hay đa phương để khai thác lấy một mình, mà các nước liên hệ chẳng làm gì nổi.
Hỏi: Nếu vậy, Việt Nam có thể làm được những gì, và vận động quốc tế ra sao"
-- Câu trả lời thực ra không giản dị vì có khác biệt về nhận thức của lãnh đạo Hà Nội nói riêng và của Việt Nam nói chung. Hà Nội không dám hoặc không muốn gây vấn đề với Bắc Kinh vì chỉ tập trung chú ý vào quyền lãnh đạo của họ, dù Việt Nam có nhiều cách xử thế khác nếu đánh giá đúng tương quan quốc tế về quyền lợi. Tôi xin đơn cử một thí dụ. Tại Đông Á, Nhật Bản mới là cường quốc kinh tế thực sự có tiềm lực lớn về cả ngoại giao lẫn quân sự. Nhật cũng cần năng lượng và 80% dầu khí nhập khẩu phải đi qua vùng biển mà Việt Nam đang tranh chấp với Bắc Kinh. Nhật là xứ dân chủ nên khó có phản ứng phát xít quân phiệt như trong quá khứ và nay ưu tư về sự bành trướng của Trung Quốc trên vùng sinh tử kinh tế của mình. Vì vậy mới là trở lực cho việc Bắc Kinh đòi thống hợp Đài Loan, như đạo luật "phản phân liệt" mà Quốc hội Trung Quốc vừa biểu quyết ngày hôm qua đã cho thấy.
Riêng với Việt Nam, Nhật là nước đầu tiên vận động viện trợ khi Việt Nam còn bị Mỹ cấm vận và hiện vẫn là nước cấp viện lớn nhất. Việc tăng cường hợp tác với Nhật là cần thiết về cả an ninh lẫn kinh tế và dầu khí, nếu lãnh đạo Hà Nội vượt qua được nỗi sợ hãi Bắc Kinh và phản ứng tàn dư của ý thức hệ. Thí dụ như giữa Nhật và Ấn Độ thì cứ thiên về Ấn vì mối cảm tình của Ấn với xã hội chủ nghĩa. Nói chung, khi hữu sự, người ta chỉ bênh vực mình khi có quyền lợi gắn bó với mình. Khi họ vào làm ăn để gây dựng quyền lợi ấy mà mình chỉ nghĩ đến việc móc túi vặt, hoặc cứ sợ quan điểm của họ về dân chủ hay nhân quyền thì tự mình leo nằm lên thớt, một mình. Điều ấy cũng đúng trong quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ hay Úc Đại Lợi, hay với Pháp. Hà Nội rất chuộng Pháp vì lập trường chống Mỹ, mà không thấy rằng Pháp ưu tiên buôn bán với Trung Quốc vì có lợi hơn là với Việt Nam, và Pháp còn đang muốn bán võ khí cho Bắc Kinh: võ khí ấy có khi sẽ được sử dụng ngoài biển Đông của Việt Nam….

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.