Hôm nay,  

Giải Phóng Lúa Gạo

06/12/200600:00:00(Xem: 9318)

Giải Phóng Lúa Gạo

...mình trả đũa bằng biện pháp bảo vệ thì chả khác chi là tự phá hoại cầu đường của mình để trả thù....

Gạo là lương thực chính yếu cho phân nửa nhân loại, nhưng các nước sản xuất được bao nhiêu thì tiêu thụ gần hết tại chỗ nên chỉ còn một tỷ lệ nhỏ được buôn bán ra thị trường quốc tế. Trên thị trường này, 75% số gạo xuất khẩu nằm trong tay vỏn vẹn có bốn nước là Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ và Hoa Kỳ. Trong khi ấy, gạo cũng là nông sản được bảo vệ mạnh nhất và trợ cấp nhiều nhất trên thị trường quốc tế nên gây thiệt hại lớn cho các nước nghèo. Tiếp tục kỳ trước, Diễn đàn Kinh tế Đài RFA sẽ tìm hiểu về việc giải trừ nghịch lý này trong cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa hầu quý thính giả.

Hỏi: Tại phiên họp vừa qua của Quốc hội Việt Nam, một vị đại biểu đã đề nghị đồng loạt nâng mức trợ cấp nông nghiệp từ 10 đến 15% nhưng lập tức một vị đại biểu khác lại phát biểu ý kiến trái ngược, rằng không nên tiếp tục duy trì chế độ bao cấp như vậy vì không có lợi.

Thưa ông, đang theo dõi tình hình lúa gạo và hậu quả tai hại do chế độ trợ giá lúa gạo của các nước giàu gây ra cho các nước nghèo, ông nghĩ sao về hai quan điểm trái ngược nói trên"

- Tôi thông cảm với phản ứng tự vệ trong ý hướng bảo vệ nông nghiệp Việt Nam của vị đại biểu muốn tăng mức trợ cấp cho nông gia Việt Nam nhưng lại đồng ý với quan điểm của vị đại biểu kia và mừng là có người đã nêu ra điều ấy cho công luận và chính quyền suy ngẫm.

Tôi xin đi từ nguyên tắc là chế độ tự do mậu dịch cũng đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một nước y như hệ thống hạ tầng vật chất là cầu cống đường xá. Bây giờ, khi thấy một quốc gia giới hạn tự do mậu dịch của họ mà mình trả đũa bằng biện pháp bảo vệ thì chả khác chi là tự phá hoại cầu đường của mình để trả thù. Điều ấy gây bất lợi cho lâu dài vì cái được vốn dễ thấy, nhưng cái mất thì chẳng ai nhìn ra.

Hỏi: Khi ông nói về nguyên tắc thì cũng hàm ý là có nhiều biện pháp khác về thực tế"

- Trong thực tế thì không phải có xứ nào thi hành chế độ bảo vệ và trợ cấp lúa gạo - như trường hợp Hoa Kỳ mà ta đã tìm hiểu kỳ trước - thì mình sẽ cũng nên làm như họ. Điều ấy chỉ làm suy yếu khả năng cạnh tranh của mình và đánh mất một tín hiệu cần thiết về cung cầu là giá cả, hầu từ đó tính toán chính xác và nhậm lẹ hơn về việc sản xuất và phân phối.

Tuy nhiên, chính quyền và các cơ quan ngoài chính quyền, giới khoa học và giáo dục cần yểm trợ nông dân của mình về khoa học, kỹ thuật canh tác, về thông tin thị trường hầu nông gia biết cải thiện sản xuất và có phản ứng thích hợp với những xoay chuyển về giá cả hay sở thích trên thị trường quốc tế. Trợ giá nông phẩm vì vậy không có ích bằng, thí dụ như, giúp nông gia thấy trước và đối phó được hữu hiệu với nạn sâu rầy hay dịch bệnh đang hoành hành trên vựa lúa của miền Nam. Vì vậy, chúng ta nên quan niệm lại cách yểm trợ cho thực tế hơn.

Hỏi: Một cách cụ thể thì ông cho là Việt Nam nên ứng phó như thế nào"

- Tôi thiển nghĩ là nên định chế hoá việc yểm trợ nông nghiệp qua xây dựng hạ tầng tiêu tưới và vận chuyển, xay xấy, tồn trữ, qua việc nghiên cứu về hạt giống, các thứ dịch bệnh và qua các chương trình khuyến nông nhằm nâng cao năng suất và chủng loại mà vẫn bảo vệ được môi sinh. Còn trợ cấp bằng can thiệp tài chính vào giá cả chỉ là liều thuốc đổ bệnh. Đồng thời, Việt Nam nên dùng những cơ chế sẵn có như Tổ chức Thương mại Quốc tế WTO hay tổ chức Lương nông FAO của Liên hiệp quốc để nêu vấn đề và vận động việc giải phóng lúa gạo.

Hỏi: Trở lại đề tài giải phóng luá gạo cho các nước nghèo, xin ông trình bày khái quát về bối cảnh vấn đề. Trước hết là về sản xuất, sau đó là về xuất khẩu.

- Gạo là nguồn lương thực chính yếu của phân nửa nhân loại. Xưa nay, đa số các nước trồng chỉ đủ ăn và thực sự mới dư dôi để xuất khẩu từ đầu thập niên 90, từ mười mấy năm nay mà thôi. Việt Nam chỉ bắt đầu xuất khẩu sau khi bãi bỏ chế độ hợp tác nông nghiệp và giải phóng sức sản xuất của người dân. Mà Việt Nam cũng là quốc gia có mức ăn gạo cao nhất thế giới, bình quân là 232 ký một người trong một năm, so với gần 200 ký của một nước cực nghèo khác là Bangladesh, hay 165 ký của dân Thái Lan, 100 ký tại Hàn Quoốc hoặc chỉ có 66 ký tại Nhật.

Hỏi: Khi ông nói Việt Nam là quốc gia tiêu thụ gạo nhiều nhất trên thế giới thì giá lúa gạo là một yếu tố then chốt về mức sống người dân phải không"

- Thưa đúng như vậy, ngoài vàng và sau này là Mỹ kim, dân ta vẫn quen tính toán việc mua bán đổi chác với nhau qua một phương tiện giao hoán phổ biến là lúa. Các nước trồng gạo thì nhiều - nhưng đến 95% là các nước nghèo và phân nửa sản lượng là từ hai xứ đông dân nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ. Thế mà dư thừa để xuất khẩu thì chẳng có bao nhiêu quốc gia. Bốn nước dẫn đầu là Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ và Hoa Kỳ thì đã chiếm đến ba phần tư là 75% ngạch số xuất khẩu của cả thế giới.

Thật ra, lượng gạo xuất khẩu chỉ chiếm có 6% của tổng số gạo thu hoạch được trên thế giới. Nhưng cái đỉnh mong manh ở trên, là thị trường xuất khẩu ấy, lại được bảo vệ rất kỹ, bảo vệ từ gốc là trợ cấp cho nông gia sản xuất, như tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn và nhiều nước Âu châu, cho đến ngọn là qua chế độ trợ giá xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, nhất là cho loại gạo hạt tròn gọi là Japonica. Việc bảo vệ ấy chẳng những gây thiệt hại cho nước xuất khẩu khác - vỏn vẹn chừng một chục quốc gia - mà còn chi phối giá cả và mùa màng của các nước nghèo. Lý do là theo thống kê của cơ quan Lương nông FAO, các nước nghèo chiếm 83% số gạo xuất khẩu và 85% số gạo nhập khẩu của thế giới. Bây giờ, một số quốc gia đã phát triển mà thực sự không phải sống chết về gạo mà lại tiếp tục duy trì chế độ trợ cấp ấy thì tất nhiên gây thiệt hại đầy bất công cho thế giới.

Hỏi: Ông vừa nói ra vài con số đáng kinh ngạc, có bốn nước chi phối đến 75% lượng gạo xuất khẩu của thế giới là Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ và Hoa Kỳ, nhưng đồng thời các nước nghèo lại chiếm đến 83% số gạo xuất khẩu này. Điều ấy có nghĩa là ngoài Hoa Kỳ thì đại đa số các nước có gạo để bán ra ngoài đều thuộc loại nghèo và đang phát triển"

Thưa vâng, và đấy là một nghịch lý đáng chú ý. Ngoài Hoa Kỳ, có Australia và Nam Hàn cũng xuất cảng gạo, hai nước sau này vỏn vẹn chỉ có 2%, là thuộc loại đã công nghiệp hoá.

Còn lại là Pakistan, Egypt, Trung Quốc và Uruguay. Nghịch lý ở đây là Mỹ, với chính sách bảo hộ nặng nề không thua kém gì Liên hiệp Âu châu mà chỉ để bảo vệ quyền lợi cho một số dân rất ít ỏi và thực sự không phải là bần cùng nghèo túng. Họ là doanh gia về nông nghiệp, và nhóm doanh gia nhận trợ cấp nhiều nhất lại có lợi tức đồng niên chừng hơn 140 ngàn đô la, cao gấp hai lần rưỡi lợi tức bình quân của dân Mỹ. Đây là ta căn cứ trên thống kê của bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. Và họ làm giới thọ thuế hay tiêu thụ Mỹ và nông gia xứ khác bị thiệt!

Nghịch lý ở đây là chế độ thuế quan trên thế giới khiến gạo đắt giá hơn 43% và riêng ảnh huởng của chính sách lúa gạo Mỹ khiến giá gạo thế giới bị sụt mất 6% chỉ để nâng cao lợi tức đến ba phần tư cho một thiểu số nông gia trồng gạo trong sáu tiểu bang của Hoa Kỳ.

Hỏi: Bây giờ, chúng ta sẽ nói đến việc giải phóng lúa gạo, điều ấy có nghĩa là gì"

- Điều ấy có nghĩa cụ thể là vận động các nước bãi bỏ chế độ trợ cấp sản xuất, nhất là tại các nước phát triển, và giải tỏa hết những rào cản về quan thuế nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu.

Trong hai phạm vi bảo vệ, ở sản xuất hay xuất nhập khẩu thì việc bãi bỏ chế độ bảo hộ trong xuất nhập khẩu sẽ có tác dụng lớn hơn cho thị trường lương thực của thế giới. Theo công trình nghiên cứu của FAO thì việc ấy sẽ nâng giá gạo xuất khẩu từ 10 đến 14% và đồng thời gia tăng lượng gạo buôn bán trên thế giới được từ 30 đến 45%, tùy loại gạo. Còn theo Ngân hàng Thế giới, nếu Mỹ giải phóng lúa gạo thì ngạch số gạo buôn bán trên thế giới sẽ tăng được 15%, giá xuất khẩu sẽ tăng được gần 33% và giá gạo nhập khẩu giảm được 13,5%.

Hỏi: Trên diễn đàn này, ông thường nói đến quy luật được thua, lợi hại của từng quyết định kinh tế. Trong việc giải phóng lúa gạo, nếu có nhiều thành phần sẽ được, thí dụ như xuất khẩu dễ dàng hơn với giá cao hơn, thì có ai bị thiệt do quyết định này hay không"

- Tất nhiên thì nhất thời là có. Hoàn cảnh của mỗi nước và sở trường của từng nước về loại gạo họ trồng trọt, tiêu thụ và buôn bán thì mỗi xứ mỗi khác, nhưng các nước thuần nhập, nghĩa là trồng không đủ gạo ăn, thì bị thiệt nhất, nếu giá gạo tăng. Ngược lại, các nước xuất khẩu như Việt Nam thì có lợi khi khối lượng và giá xuất khẩu sẽ tăng. Nông gia trồng lúa cũng có lợi nhờ lợi tức được nâng cao cùng giá gạo. Tuy nhiên, xét vào chi tiết thì mối lợi lớn nhất sẽ là của các nước trồng loại gạo hạt tròn Japonica, nhiều hơn là loại gạo hạt dài Indica hay gạo thơm. Cũng chính vì những đặc tính ấy mà các cơ quan khuyến nông của Việt Nam mới cần tìm hiểu tình hình thị trường thế giới để giúp đỡ nông gia của mình đa dạng hóa việc sản xuất hầu không chỉ có đủ gạo ăn mà còn cạnh tranh được với các nước khác ở nơi có lợi nhất.

Hỏi: Thế muốn đạt kết quả ấy, các nước cần phải làm gì và đâu là những trở ngại" 

Các nước nghèo xưa nay bị nạn đói ám ảnh nên có thể vì lý do an toàn lương thực mà duy trì chế độ trợ cấp nông nghiệp hầu tránh động loạn xã hội và lo đủ lương thực cho đại đa số dân chúng. Vì vậy, ta có thể thông cảm với họ, dù rằng việc ấy không có lợi về dài. Tuy nhiên, vấn đề chính thực ra không nằm ở chế độ trợ cấp sản xuất của các nước nghèo, nhất là khi đã dư thừa để xuất khẩu như Việt Nam. Vấn đề chính là chế độ bảo hộ mậu dịch của các nước giàu để yểm trợ xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hầu ưu đãi một thiểu số dân chúng của họ mà gây thiệt hại cho người thọ thuế, người tiêu thụ và nông gia của các nước nghèo.

Hỏi: Câu hỏi cuối ở đây, thưa ông, liệu các quốc gia trên thế giới đã sẵn sàng để giải phóng lúa gạo hay chưa"

- Ngắn gọn thì chưa dù bị sức ép rất mạnh. Quốc gia nào cũng ưa tìm ra lý do chính đáng để đòi xứ khác thay đổi mà mình vẫn giữ nguyên trạng nếu điều ấy có lợi. Xu hướng bảo hộ mậu dịch tại Mỹ đã tìm ra một từ rất khéo, tức là không thật, để nói là "mậu dịch tự do" không có giá trị bằng "mậu dịch công bằng".

Cũng chính vì đặc tính ấy mà các nước đang phát triển lại càng phải tranh đấu mạnh hơn và với viễn ảnh sẽ gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới vào cuối tháng này, Việt Nam cần tự chuẩn bị cho việc đấu tranh và vận động ấy.

Qua năm tới, Đạo luật Nông nghiệp Mỹ, gọi là Đạo luật về An toàn Nông trang và Đầu tư Nông thôn, sẽ phải được Quốc hội Mỹ thảo luận lại với rất nhiều biện pháp bao cấp và sẽ gây phản ứng mạnh từ các nước khác, từ Liên hiệp Âu châu tới các nước đang phát triển. Đấy là cơ hội cho Việt Nam tiếp thu kinh nghiệm, cụ thể là học bài để chuẩn bị bảo vệ quyền lợi của mình. Và nếu có vận động hành lang thì đừng chỉ lo che chắn cho chuyện vi phạm nhân quyền mà phải nghĩ tới quyền lợi của nông dân.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.