Hôm nay,  

Giải Phóng Lúa Gạo

12/6/200600:00:00(View: 9122)

Giải Phóng Lúa Gạo

...mình trả đũa bằng biện pháp bảo vệ thì chả khác chi là tự phá hoại cầu đường của mình để trả thù....

Gạo là lương thực chính yếu cho phân nửa nhân loại, nhưng các nước sản xuất được bao nhiêu thì tiêu thụ gần hết tại chỗ nên chỉ còn một tỷ lệ nhỏ được buôn bán ra thị trường quốc tế. Trên thị trường này, 75% số gạo xuất khẩu nằm trong tay vỏn vẹn có bốn nước là Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ và Hoa Kỳ. Trong khi ấy, gạo cũng là nông sản được bảo vệ mạnh nhất và trợ cấp nhiều nhất trên thị trường quốc tế nên gây thiệt hại lớn cho các nước nghèo. Tiếp tục kỳ trước, Diễn đàn Kinh tế Đài RFA sẽ tìm hiểu về việc giải trừ nghịch lý này trong cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa hầu quý thính giả.

Hỏi: Tại phiên họp vừa qua của Quốc hội Việt Nam, một vị đại biểu đã đề nghị đồng loạt nâng mức trợ cấp nông nghiệp từ 10 đến 15% nhưng lập tức một vị đại biểu khác lại phát biểu ý kiến trái ngược, rằng không nên tiếp tục duy trì chế độ bao cấp như vậy vì không có lợi.

Thưa ông, đang theo dõi tình hình lúa gạo và hậu quả tai hại do chế độ trợ giá lúa gạo của các nước giàu gây ra cho các nước nghèo, ông nghĩ sao về hai quan điểm trái ngược nói trên"

- Tôi thông cảm với phản ứng tự vệ trong ý hướng bảo vệ nông nghiệp Việt Nam của vị đại biểu muốn tăng mức trợ cấp cho nông gia Việt Nam nhưng lại đồng ý với quan điểm của vị đại biểu kia và mừng là có người đã nêu ra điều ấy cho công luận và chính quyền suy ngẫm.

Tôi xin đi từ nguyên tắc là chế độ tự do mậu dịch cũng đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một nước y như hệ thống hạ tầng vật chất là cầu cống đường xá. Bây giờ, khi thấy một quốc gia giới hạn tự do mậu dịch của họ mà mình trả đũa bằng biện pháp bảo vệ thì chả khác chi là tự phá hoại cầu đường của mình để trả thù. Điều ấy gây bất lợi cho lâu dài vì cái được vốn dễ thấy, nhưng cái mất thì chẳng ai nhìn ra.

Hỏi: Khi ông nói về nguyên tắc thì cũng hàm ý là có nhiều biện pháp khác về thực tế"

- Trong thực tế thì không phải có xứ nào thi hành chế độ bảo vệ và trợ cấp lúa gạo - như trường hợp Hoa Kỳ mà ta đã tìm hiểu kỳ trước - thì mình sẽ cũng nên làm như họ. Điều ấy chỉ làm suy yếu khả năng cạnh tranh của mình và đánh mất một tín hiệu cần thiết về cung cầu là giá cả, hầu từ đó tính toán chính xác và nhậm lẹ hơn về việc sản xuất và phân phối.

Tuy nhiên, chính quyền và các cơ quan ngoài chính quyền, giới khoa học và giáo dục cần yểm trợ nông dân của mình về khoa học, kỹ thuật canh tác, về thông tin thị trường hầu nông gia biết cải thiện sản xuất và có phản ứng thích hợp với những xoay chuyển về giá cả hay sở thích trên thị trường quốc tế. Trợ giá nông phẩm vì vậy không có ích bằng, thí dụ như, giúp nông gia thấy trước và đối phó được hữu hiệu với nạn sâu rầy hay dịch bệnh đang hoành hành trên vựa lúa của miền Nam. Vì vậy, chúng ta nên quan niệm lại cách yểm trợ cho thực tế hơn.

Hỏi: Một cách cụ thể thì ông cho là Việt Nam nên ứng phó như thế nào"

- Tôi thiển nghĩ là nên định chế hoá việc yểm trợ nông nghiệp qua xây dựng hạ tầng tiêu tưới và vận chuyển, xay xấy, tồn trữ, qua việc nghiên cứu về hạt giống, các thứ dịch bệnh và qua các chương trình khuyến nông nhằm nâng cao năng suất và chủng loại mà vẫn bảo vệ được môi sinh. Còn trợ cấp bằng can thiệp tài chính vào giá cả chỉ là liều thuốc đổ bệnh. Đồng thời, Việt Nam nên dùng những cơ chế sẵn có như Tổ chức Thương mại Quốc tế WTO hay tổ chức Lương nông FAO của Liên hiệp quốc để nêu vấn đề và vận động việc giải phóng lúa gạo.

Hỏi: Trở lại đề tài giải phóng luá gạo cho các nước nghèo, xin ông trình bày khái quát về bối cảnh vấn đề. Trước hết là về sản xuất, sau đó là về xuất khẩu.

- Gạo là nguồn lương thực chính yếu của phân nửa nhân loại. Xưa nay, đa số các nước trồng chỉ đủ ăn và thực sự mới dư dôi để xuất khẩu từ đầu thập niên 90, từ mười mấy năm nay mà thôi. Việt Nam chỉ bắt đầu xuất khẩu sau khi bãi bỏ chế độ hợp tác nông nghiệp và giải phóng sức sản xuất của người dân. Mà Việt Nam cũng là quốc gia có mức ăn gạo cao nhất thế giới, bình quân là 232 ký một người trong một năm, so với gần 200 ký của một nước cực nghèo khác là Bangladesh, hay 165 ký của dân Thái Lan, 100 ký tại Hàn Quoốc hoặc chỉ có 66 ký tại Nhật.

Hỏi: Khi ông nói Việt Nam là quốc gia tiêu thụ gạo nhiều nhất trên thế giới thì giá lúa gạo là một yếu tố then chốt về mức sống người dân phải không"

- Thưa đúng như vậy, ngoài vàng và sau này là Mỹ kim, dân ta vẫn quen tính toán việc mua bán đổi chác với nhau qua một phương tiện giao hoán phổ biến là lúa. Các nước trồng gạo thì nhiều - nhưng đến 95% là các nước nghèo và phân nửa sản lượng là từ hai xứ đông dân nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ. Thế mà dư thừa để xuất khẩu thì chẳng có bao nhiêu quốc gia. Bốn nước dẫn đầu là Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ và Hoa Kỳ thì đã chiếm đến ba phần tư là 75% ngạch số xuất khẩu của cả thế giới.

Thật ra, lượng gạo xuất khẩu chỉ chiếm có 6% của tổng số gạo thu hoạch được trên thế giới. Nhưng cái đỉnh mong manh ở trên, là thị trường xuất khẩu ấy, lại được bảo vệ rất kỹ, bảo vệ từ gốc là trợ cấp cho nông gia sản xuất, như tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn và nhiều nước Âu châu, cho đến ngọn là qua chế độ trợ giá xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, nhất là cho loại gạo hạt tròn gọi là Japonica. Việc bảo vệ ấy chẳng những gây thiệt hại cho nước xuất khẩu khác - vỏn vẹn chừng một chục quốc gia - mà còn chi phối giá cả và mùa màng của các nước nghèo. Lý do là theo thống kê của cơ quan Lương nông FAO, các nước nghèo chiếm 83% số gạo xuất khẩu và 85% số gạo nhập khẩu của thế giới. Bây giờ, một số quốc gia đã phát triển mà thực sự không phải sống chết về gạo mà lại tiếp tục duy trì chế độ trợ cấp ấy thì tất nhiên gây thiệt hại đầy bất công cho thế giới.

Hỏi: Ông vừa nói ra vài con số đáng kinh ngạc, có bốn nước chi phối đến 75% lượng gạo xuất khẩu của thế giới là Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ và Hoa Kỳ, nhưng đồng thời các nước nghèo lại chiếm đến 83% số gạo xuất khẩu này. Điều ấy có nghĩa là ngoài Hoa Kỳ thì đại đa số các nước có gạo để bán ra ngoài đều thuộc loại nghèo và đang phát triển"

Thưa vâng, và đấy là một nghịch lý đáng chú ý. Ngoài Hoa Kỳ, có Australia và Nam Hàn cũng xuất cảng gạo, hai nước sau này vỏn vẹn chỉ có 2%, là thuộc loại đã công nghiệp hoá.

Còn lại là Pakistan, Egypt, Trung Quốc và Uruguay. Nghịch lý ở đây là Mỹ, với chính sách bảo hộ nặng nề không thua kém gì Liên hiệp Âu châu mà chỉ để bảo vệ quyền lợi cho một số dân rất ít ỏi và thực sự không phải là bần cùng nghèo túng. Họ là doanh gia về nông nghiệp, và nhóm doanh gia nhận trợ cấp nhiều nhất lại có lợi tức đồng niên chừng hơn 140 ngàn đô la, cao gấp hai lần rưỡi lợi tức bình quân của dân Mỹ. Đây là ta căn cứ trên thống kê của bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. Và họ làm giới thọ thuế hay tiêu thụ Mỹ và nông gia xứ khác bị thiệt!

Nghịch lý ở đây là chế độ thuế quan trên thế giới khiến gạo đắt giá hơn 43% và riêng ảnh huởng của chính sách lúa gạo Mỹ khiến giá gạo thế giới bị sụt mất 6% chỉ để nâng cao lợi tức đến ba phần tư cho một thiểu số nông gia trồng gạo trong sáu tiểu bang của Hoa Kỳ.

Hỏi: Bây giờ, chúng ta sẽ nói đến việc giải phóng lúa gạo, điều ấy có nghĩa là gì"

- Điều ấy có nghĩa cụ thể là vận động các nước bãi bỏ chế độ trợ cấp sản xuất, nhất là tại các nước phát triển, và giải tỏa hết những rào cản về quan thuế nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu.

Trong hai phạm vi bảo vệ, ở sản xuất hay xuất nhập khẩu thì việc bãi bỏ chế độ bảo hộ trong xuất nhập khẩu sẽ có tác dụng lớn hơn cho thị trường lương thực của thế giới. Theo công trình nghiên cứu của FAO thì việc ấy sẽ nâng giá gạo xuất khẩu từ 10 đến 14% và đồng thời gia tăng lượng gạo buôn bán trên thế giới được từ 30 đến 45%, tùy loại gạo. Còn theo Ngân hàng Thế giới, nếu Mỹ giải phóng lúa gạo thì ngạch số gạo buôn bán trên thế giới sẽ tăng được 15%, giá xuất khẩu sẽ tăng được gần 33% và giá gạo nhập khẩu giảm được 13,5%.

Hỏi: Trên diễn đàn này, ông thường nói đến quy luật được thua, lợi hại của từng quyết định kinh tế. Trong việc giải phóng lúa gạo, nếu có nhiều thành phần sẽ được, thí dụ như xuất khẩu dễ dàng hơn với giá cao hơn, thì có ai bị thiệt do quyết định này hay không"

- Tất nhiên thì nhất thời là có. Hoàn cảnh của mỗi nước và sở trường của từng nước về loại gạo họ trồng trọt, tiêu thụ và buôn bán thì mỗi xứ mỗi khác, nhưng các nước thuần nhập, nghĩa là trồng không đủ gạo ăn, thì bị thiệt nhất, nếu giá gạo tăng. Ngược lại, các nước xuất khẩu như Việt Nam thì có lợi khi khối lượng và giá xuất khẩu sẽ tăng. Nông gia trồng lúa cũng có lợi nhờ lợi tức được nâng cao cùng giá gạo. Tuy nhiên, xét vào chi tiết thì mối lợi lớn nhất sẽ là của các nước trồng loại gạo hạt tròn Japonica, nhiều hơn là loại gạo hạt dài Indica hay gạo thơm. Cũng chính vì những đặc tính ấy mà các cơ quan khuyến nông của Việt Nam mới cần tìm hiểu tình hình thị trường thế giới để giúp đỡ nông gia của mình đa dạng hóa việc sản xuất hầu không chỉ có đủ gạo ăn mà còn cạnh tranh được với các nước khác ở nơi có lợi nhất.

Hỏi: Thế muốn đạt kết quả ấy, các nước cần phải làm gì và đâu là những trở ngại" 

Các nước nghèo xưa nay bị nạn đói ám ảnh nên có thể vì lý do an toàn lương thực mà duy trì chế độ trợ cấp nông nghiệp hầu tránh động loạn xã hội và lo đủ lương thực cho đại đa số dân chúng. Vì vậy, ta có thể thông cảm với họ, dù rằng việc ấy không có lợi về dài. Tuy nhiên, vấn đề chính thực ra không nằm ở chế độ trợ cấp sản xuất của các nước nghèo, nhất là khi đã dư thừa để xuất khẩu như Việt Nam. Vấn đề chính là chế độ bảo hộ mậu dịch của các nước giàu để yểm trợ xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hầu ưu đãi một thiểu số dân chúng của họ mà gây thiệt hại cho người thọ thuế, người tiêu thụ và nông gia của các nước nghèo.

Hỏi: Câu hỏi cuối ở đây, thưa ông, liệu các quốc gia trên thế giới đã sẵn sàng để giải phóng lúa gạo hay chưa"

- Ngắn gọn thì chưa dù bị sức ép rất mạnh. Quốc gia nào cũng ưa tìm ra lý do chính đáng để đòi xứ khác thay đổi mà mình vẫn giữ nguyên trạng nếu điều ấy có lợi. Xu hướng bảo hộ mậu dịch tại Mỹ đã tìm ra một từ rất khéo, tức là không thật, để nói là "mậu dịch tự do" không có giá trị bằng "mậu dịch công bằng".

Cũng chính vì đặc tính ấy mà các nước đang phát triển lại càng phải tranh đấu mạnh hơn và với viễn ảnh sẽ gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới vào cuối tháng này, Việt Nam cần tự chuẩn bị cho việc đấu tranh và vận động ấy.

Qua năm tới, Đạo luật Nông nghiệp Mỹ, gọi là Đạo luật về An toàn Nông trang và Đầu tư Nông thôn, sẽ phải được Quốc hội Mỹ thảo luận lại với rất nhiều biện pháp bao cấp và sẽ gây phản ứng mạnh từ các nước khác, từ Liên hiệp Âu châu tới các nước đang phát triển. Đấy là cơ hội cho Việt Nam tiếp thu kinh nghiệm, cụ thể là học bài để chuẩn bị bảo vệ quyền lợi của mình. Và nếu có vận động hành lang thì đừng chỉ lo che chắn cho chuyện vi phạm nhân quyền mà phải nghĩ tới quyền lợi của nông dân.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.