Hôm nay,  

Lá Phiếu Iran

03/11/200600:00:00(Xem: 8638)

Lá Phiếu Iran

Cách không đả ngưu - Giáo chủ dồn phiếu...

Nghị sĩ Dân chủ Joe Biden là người buồn bực nhất tuần qua.

Xuất thân từ tiểu bang Delaware, Biden là chuẩn ứng viên Dân chủ bị hụt trong vòng sơ bộ của cuộc bầu cử tổng thống năm 1988. Trước đấy, ông là một trong vai nghị sĩ trẻ nhất được bầu vào Thượng viện (29 tuổi) năm 1972. Từ đó đến nay, qua 34 năm, ông trở thành nhân vật sáng giá về đối ngoại trong Ủy ban Ngoại giao, thuộc xu hướng ôn hoà thực tế.

Joe Biden buồn bực mà không nói ra chỉ vì thành tích của một đồng viện đồng đảng. John Kerry!

Tối Thứ Ba, Nghị sĩ Joe Biden có trình bày trước Đại hoc Iowa kế hoạch của ông về Iraq nhưng ra khỏi khuôn viên đại học và ban tham mưu, không ai biết tới đề nghị này. Cả ngày hôm đó cho đến các ngày sau, mọi người đều nói đến lời phát biểu xấc láo và lời biện bạch vụng về của John Kerry tại Pasadena, miền Nam California.

Đảng Dân chủ tiến vào cuộc tranh cử giữa nhiệm kỳ với chủ đích là dùng hồ sơ Iraq làm đòn bẩy, lấy thất bại của chính quyền Bush làm cây gậy và vì vậy bị mang tiếng là không có chủ trương đề nghị gì thiết thực. Hiểu ra chuyện đó và có tinh thần trách nhiệm hơn, Nghị sĩ Joe Biden vạch ra kế hoạch năm điểm để giải quyết hồ sơ Iraq. Nếu đảng Dân chủ chiếm được đa số, nhiều phần là Joe Biden sẽ thay thế Nghị sĩ Richard Lugar làm Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao. Hai vị đồng viện thuộc hai đảng đối nghịch đều có sự tương kính và thường hợp tác với nhau trong tinh thần xây dựng.

Vì vậy, việc đề nghị của Joe Biden bị dư luận lãng quên là một điều đáng tiếc.

Kế hoạch Biden, cùng soạn thảo với Chủ tịch hội đồng Council of Foreign Relations Leslie Gelb, là một "giải pháp thứ ba", không tháo chạy như cánh tả và đa số đảng Dân chủ đề nghị, nhưng cũng không lỳ lợm dậm chân tại chỗ như chính quyền Bush đang bị đả kích.

Kế hoạch gồm năm điểm là 1) không chia Iraq làm ba nước nhưng là một quốc gia có ba vùng, 2) các sắc tộc sẽ cùng chia nhau quyền lợi về dầu khí, 3) tổ chức hội nghị quốc tế để tìm sự cam kết đa phương giữa các nước liên hệ hầu đảm bảo hoà bình cho Iraq, 4) tái phối trí và triệt thoái dần quân lực Mỹ từ nay đến cuối năm 2007, chỉ để lại khoảng 20 ngàn quân để đảm bảo sự cam kết của các lân bang, và sau cùng 5) gia tăng viện trợ tái thiết và tạo thêm việc làm cho dân chúng.

Kế hoạch này có đặc tính là vừa bảo vệ quyền lợi đồng đều của cả ba sắc tộc Shia, Sunni và Kurd trong một nước Iraq thống nhất đồng thời dùng thế ngoại giao để ngăn ngừa xung đột giữa các hệ phái và sự can thiệp của các lân bang.

Nhược điểm của mọi kế hoạch ngoại giao là… bắp thịt. Là sức mạnh và ý chí.

Một kế hoạch tương tự đã thành công tại Bosnia trong vùng Balkan vì các nước liên hệ không muốn giao tranh lan rộng. Xứ hung hăng nhất là Serbia thì sau đó cũng bị chặn đứng tại Kosovo, rồi tự chuyển hoá ra chế độ dân chủ sau khi Slobodan Milosevic bị loại. Đấy là xung đột giữa các nước trong Liên bang Nam Tư nằm tại Âu châu và nếu các nước Âu châu không giải quyết được xung đột thì Hoa Kỳ phải nhập cuộc, nhưng có sự hợp tác hỗ trợ của Âu châu.

Trường hợp Iraq thì khác.

Và chúng ta trở lại cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ.

Chính quyền Bush sẽ còn tại chức đến tháng Giêng năm 2009, nhưng Quốc hội được bầu lại vào tuần tới sẽ chi phối các quyết định của Hành pháp.

Nếu đảng Dân chủ thắng lớn tại cả hai viện, Thượng viện có khả năng làm tê liệt mọi sáng kiến đối ngoại của ông Bush. Nếu Hạ viện cũng rơi vào tay đảng Dân chủ, ông Bush sẽ bị điều tra truy tố liên miên và bị cột tay về đối ngoại qua thủ tục ngân sách. Lý do là mọi người chú ý đến và tự chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử 2008.

Lần đầu tiên từ 56 năm nay, các ứng viên tổng thống và phó tổng thống vào năm 2008 sẽ là khuôn mặt mới, không ai là người đang tại chức mà ra tái tranh cử.

Trước một đấu trường mở rộng ấy, việc chuẩn bị từ vòng sơ bộ trong từng đảng đến cuộc đầu phiếu vào mùng bốn tháng 11 năm 2008 sẽ hứa hẹn nhiều pha sôi nổi, khởi sự ngay từ cuối năm 2007. Căn cứ trên số lượng bùn nhơ được quăng ra trong cuộc bầu cử năm nay, chúng ta phải đoán trước là kỳ tới sẽ còn hãi hùng hơn.

Khiến cho không ai nhìn thấy gì nữa.

Trừ các Giáo chủ Iran.

Các lãnh tụ Iran đều thấy và biết rằng Hoa Kỳ đang bị suy yếu, mọi lời hăm dọa ngăn ngừa hay trừng phạt kế hoạch võ khí hạch tâm của Tehran đều là vô hiệu. Đấy là chưa kể đến hai hội viên thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc là Trung Quốc và Liên bang Nga đều sẵn sàng đỡ đòn cho Iran, có khi là để mặc cả chuyện Bắc Hàn.

Đã vậy, Iran còn muốn Hoa Kỳ bị suy yếu hơn nữa nên ra sức quậy phá vào nội tình Iraq, qua lực lượng Shia được xứ này yểm trợ và trang bị, không khác gì lực lượng Hezbollah tại Lebanon.

Vì vậy, Iran và các hệ phái võ trang Shia đang cắt cánh ông Bush.

Hoạt động ấy đã tác động vào chính trường Mỹ khiến chính quyền Bush và đảng Cộng hoà bị thất thế nặng dù kinh tế đang phát đạt, năng suất gia tăng và thất nghiệp ở mức thấp nhất. Đấy là lá phiếu Iran, được truyền thông Mỹ hồn nhiên khuếch đại chỉ vì có ác cảm tiên thiên với chính quyền Bush. Các cuộc khảo sát gần đây đều cho thấy điều ấy, đa số đến 80% truyền thông cổ điển thuộc dòng chính lưu đều thiên về đảng Dân chủ và loan tin xấu nhiều hơn tin tốt.

Thông thường, đảng đa số - đang kiểm soát Hành pháp - thường bị yếu thế trong các cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ. Lần này, tình hình có thể còn bất lợi hơn nữa cho đảng Cộng hoà vì hồ sơ Iraq, chưa nói đến quá nhiều tai tiếng đã xảy ra trong đảng và cách tường thuật của truyền thông. Nếu để ý, người ta thấy sự vụng về của Jon Kerry đã được các nhật báo lớn dồn xuống dưới và chỉ tường thuật phản ứng của Tổng thống Bush hay Phát ngôn viên John Snow!

Tuy nhiên, sự đời, hoặc tình hình tại Iraq, không nhất thiết biến chuyển theo một hướng tất yếu và giải pháp ôn hoà của Joe Biden chưa chắc đã là giải pháp khả thi.

Iraq là một xứ có đa số (60%) dân chúng theo hệ phái Shia, tương tự như Iran, nhưng cả hai lại nằm giữa một khối Á Rập đông đảo mà đa số theo hệ phái Sunni. Sức quậy phá của Iran và các lực lượng Shia khiến dân Sunni tại Iraq và các nước Hồi giáo Sunni khác e ngại, đứng đầu là Saudi Arabia.

Hoàng gia Saudi không muốn Mỹ đổ quân vào bảo vệ lãnh thổ của mình - một lý cớ khiến Osama bin Laden mở cuộc tấn công 9-11 - nhưng cần tới quân lực Mỹ để chặn đứng phe Shia. Giải pháp hay nhất là Mỹ vẫn có mặt tại Iraq để đỡ đạn cho mình. Cho nên, Iran muốn Mỹ tháo chạy, Saudi Arabia muốn Mỹ đừng triệt thoái. Phe Sunni tại Iraq cũng vậy. Chuyện này sẽ còn kéo dài đến 2008.

Vì sao lại đến nỗi ấy"

Khi Hoa Kỳ mở chiến dịch Iraq vào tháng Ba năm 2003, dân Shia và Kurd đã được giải phóng khỏi chế độ Saddam Hussein và đảng Baath của tộc Sunni. Ngược lại, từ trong cộng đồng Sunni, có ba lực lượng đã nổi dậy đánh Mỹ.

Đó là 1) tàn dư của chế độ Baath, mà lãnh đạo Mỹ thời đó đã dạt dột cho giải tán nhưng hết kiểm soát được; 2) các xu hướng quốc gia Sunni chống Mỹ vì không chấp nhận sự hiện diện của quân đội ngoại bang; và 3) các nhóm khủng bố xưng danh Thánh chiến và gom dần lực lượng dưới màu sắc al-Qaeda.

Trong suốt hai năm đầu, 2003 đến 2004, Hoa Kỳ đã được sự hợp tác của các nhóm Shia, với sự biểu đồng tình - nếu chưa nói là xúi dại - của Iran vì các đơn vị Mỹ tập trung giải quyết vấn đề Sunni. Mục tiêu là ngăn chặn khủng bố và phá hoại để thuyết phục phe Sunni hợp tác với một chính quyền liên hiệp ba phe tại Baghdad.

Đây là thời kỳ "vừa đánh vừa đàm" rất rắc rối khó hiểu.

Hoa Kỳ có đạt được kết quả ấy - mà truyền thông và đối lập không nói tới - khi các lãnh tụ Sunni đồng ý hợp tác và dân Sunni tham gia bầu cử, ngày một đông hơn trong ba cuộc bầu cử năm 2005.

Tình hình bắt đầu chuyển hướng khi chính phủ liên hiệp thành hình căn cứ trên bản Hiến pháp mới và do sự đề cử của Quốc hội mới.

Phe Sunni chấp nhận đấu tranh chính trị và còn hợp tác với Mỹ - hoặc chính quyền Baghad - khi phá vỡ các cơ sở khủng bố mai phục trong cộng đồng Sunni. Cao điểm là việc lãnh tụ al-Qaeda tại Iraq là Abu Musab al-Zarqawi bị hạ sát có thể là nhờ tin tức tình báo do phe Sunni cung cấp.

Nhưng cao điểm thì cũng là cực điểm khiến mọi sự đảo lộn.

Trước tiên, khi chính quyền liên hiệp ba phe bắt đầu thành hình  tại trung ương ở Baghdad là lúc các nhóm cực đoan ra tay. Ngôi đền vàng al-Askariyah của tộc Shia bị các nhóm đặc công "Thánh chiến" phá tan tại As Samarra vào đầu năm khiến phe Shia tung quân đi tiêu diệt các lãnh tụ Sunni để trả thù. Xung đột từ đấy manh nha bùng nổ.

Thứ nữa, chính quyền liên hiệp thành hình với một cam kết là mọi giáo phái đều giải giới các lực lượng võ trang của mình để thống hợp trong bộ máy an ninh và quân sự của trung ương. Việc ấy không thành vì phe này thủ thế sợ phe kia sát hại và ngay trong nội bộ cộng đồng Shia, các lãnh tụ Shia cũng giết nhau để giành thế mạnh.

Và nhân tiện giết cả lính Mỹ.

Đằng sau, các Giáo chủ tại Tehran xoa tay tính điểm.

Hôm Thứ Tư vừa qua, trong khi dư luận Mỹ còn theo dõi chuyện John Kerry, tại Iraq, các lãnh tụ Shia lên tiếng than phiền là Hoa Kỳ cộng tác khắng khít với phe Sunni và đòi giải giới các lực lượng võ trang Shia hầu các lực lượng này không thể nổi dậy trong một cuộc xung đột có thể xảy ra giữa Iran và Hoa Kỳ.

Lời than phiền ấy đáng chú ý hơn lời phát biểu tồi tệ của Nghị sĩ Kerry!

Tại Iraq, cả hai phe Shia và Kurd đều ngồi trên giếng dầu và gây sức ép với Mỹ để tiến tới một chế độ liên bang trong đó họ sẽ chiếm phần hơn nhờ tài nguyên dầu hỏa. Sau khi nổi dậy chống Mỹ, phe Sunni ngày nay đang cần tới sự yểm trợ của Hoa Kỳ để ngừa sức ép của hai tộc kia và Hoa Kỳ cũng cần yểm trợ các nhóm Sunni để chặn đà quậy phá của Iran qua các hệ phái võ trang Shia. Cũng vì vậy mà các lãnh tụ Shia mới lo ngại và sau hai năm hợo tác với Mỹ nay đang trở thành chống Mỹ!

Cầm đầu lực lượng chính trị mạnh nhất của tộc Shia, Thượng hội đồng Cách mạng Hồi giáo Iraq (SCIRI), Abdel Aziz al-Hakim đòi thành lập một khu tự trị Shia gồm chín tỉnh miền Nam trong khuôn khổ một chế độ liên bang. Tổng thống Bush lập tức bác bỏ đề nghị ấy và dưới áp lực tranh cử ở nhà, ông cũng yêu cầu Thủ tướng Nouri al-Malaki sớm giải giới các nhóm võ trang Shia để có thể thảo luận về một lịch trình rút quân. Bị áp lực ở đầu bên kia, Thủ tướng al-Malaki gián tiếp trả lời là chính phủ của ông sẽ chỉ bắt đầu giải giới vào cuối năm nay hay đầu năm tới, và còn than phiền lính Mỹ đã tấn công lực lượng võ trang Mehdi của giáo sĩ al-Sard!

Al-Malaki khẳng định rằng mình là Thủ tướng do dân Iraq bầu lên chứ không phải là bù nhìn của Mỹ. Ông ta có lý. Nhưng đối lập Dân chủ tại Mỹ cũng có vẻ hợp lý khi đả kích là chính quyền Bush là nuôi báo cô một chính phủ thiếu khả năng, thực quyền khiến lính Mỹ chết oan!

Giữa khi hai người đang gây sức ép với nhau để tranh thủ hậu thuẫn ở nhà thì Tổng thống Iraq, Jalal Talabani, một lãnh tụ Kurd, lên tiếng than phiền là truyền thông Hoa Kỳ chỉ loan tin xấu, chứ tình hình tại chỗ thực ra có cải thiện. Nhưng Hoa Kỳ sẽ còn phải diện diện tại đây ba năm nữa.

Tóm lại, khi dân Mỹ đi bầu và chính giới Mỹ đã nhắm vào cuộc bầu cử 2008, thì tại Iraq, chúng ta có phe Sunni và các nước Á Rập khác không muốn Mỹ rút ngay, có Iran và các nhóm Shia muốn bị suy yếu để có thể khống chế cả Iraq. Và phe Kurd thì nương theo ngọn triều với Mỹ để giành được tối đa quyền lợi cho mình mà khỏi đổ máu.

Dù kết quả bầu cử có ra sao đi nữa, tại Iraq, Hoa Kỳ sẽ gặp mâu thuẫn lớn và có thể là xung đột nặng với phe Shia mà chỉ có thể giải trừ được nội loạn ở đây khi chặn được bàn tay của Tehran.

Nhưng bàn tay ấy cũng đang thọc vào thùng phiếu tại Mỹ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.