Ngày 30-4-1975, quân đội Cộng sản tiến vào Saigon, màn đen phủ xuống miền Nam cách biệt với thế giới bên ngoài. Tôi cũng như phần đông các ký giả miền Nam bị giam vào trại cải tạo, thông tin từ thế giới bên ngoài bị đoạn tuyệt hẳn nên không biết năm 1978 La Mã đã có một vị Giáo Hoàng mới. Năm 1992 sang định cư ở Mỹ, tôi đã được biết nhiều về Giáo Hoàng John Paul II. Sự chống Cộng của Ngài nằm trong một thế kình chống bao quát hơn, tức là chống lại mọi chế độ độc tài bạo ngược tả cũng như hữu, ở hữu tàn bạo nhất là Đức Quốc xã và ở tả hiểm độc nhất là độc tài Cộng sản. Cũng như nhiều vị lãnh đạo tôn giáo khác, Giáo Hoàng chủ trương một thế giới hòa bình, nguyện cầu cho con người được sống an lạc trong tự do, hạnh phúc. Nhưng chủ trương hòa bình không có nghĩa là Ngài muốn có hòa bình bằng mọi giá, chủ hòa không phải là chủ bại. Nạn Quốc xã đã tan trước ngày Ngài lên ngôi Giáo Hoàng, nhưng dưới triều đại của Ngài nhức nhối nhất cho Thế giới là Cộng sản Đệ Tam Quốc tế. Giáo Hoàng không có quân đội, không có vũ khí trong tay, chẳng lẽ Ngài chỉ chống Cộng bằng mồm" Chúng ta đã biết chửi rủa, thóa mạ, lên án Cộng sản, nó không chết, nó vẫn sống phây phây. Và khi Liên Xô còn là một trong hai siêu cường thế giới, khuyến dụ thuyết phục nó cũng như nước đổ lá khoai. Vậy Ngài làm thế nào để tạo vết nứt đầu tiên đưa đến sự sụp đổ của Thế giới Cộng sản"
Giáo Hoàng John Paul là người Ba Lan, sinh năm 1920. Năm 1940, Đức quốc xã xâm lăng Ba Lan. Sau khi cha mẹ qua đời, Ngài vào Đại học và bí mật học làm Linh mục trong thời Đức chiếm đóng. Lúc này Ngài đã tham gia phong trào kháng chiến chống Quốc Xã và năm 1942, Ngài bị Gestapo ruồng bắt cùng với một số thanh niên khác. Đây cũng là lúc vị Giáo Hoàng tương lai học được kinh nghiệm chiến đấu cụ thể bằng hành động chớ không phải chỉ biết chống bằng lý thuyết. Những kinh nghiệm sống đó đã giúp ích cho công cuộc chống Cộng của Ngài hơn 30 năm sau. Năm 1979, John Paul trở về thăm quê hương Ba Lan bị Cộng sản cai trị và chuyến đi này chủ yếu nhằm vực dậy Phong trào Đoàn Kết trong giới lao động Ba Lan, đưa đến việc giải thể chế độ Cộng sản ở nước này năm 1989. Hơn hai năm sau Liên Xô tan vỡ.
Xét công cuộc chống Cộng của Giáo Hoàng John Paul, chúng tôi nghĩ có hai đặc điểm nổi bật. Ngài chống Cộng bằng bất cứ cách nào, kể cả việc tiếp xúc và nói chuyện với Cộng sản. Nhưng Ngài không chống Cộng bằng mọi giá, nhất là cái giá gây thảm họa binh đao làm chết thường dân vô tội. Ngày 1-12-91, Tổng bí thư Liên Xô Gorbachev xin yết kiến Giáo Hoàng, Ngài tiếp. Nhưng khi Gorbachev mời Ngài qua thăm Liên Xô, Ngài không hề nhận lời. Tại sao Ngài không chịu đi" Ngài thấy Liên Xô đã tới số rồi, chẳng lẽ đi để giúp cho cơn hấp hối kéo dài" Giáo Hoàng chống Cộng sản không phải chỉ bằng cách thụ động. Mối quan hệ đặc biệt giữa Giáo Hoàng và Tổng Thống Mỹ Ronald Reagan có nhiều điểm đáng chú ý. Reagan là người xây dựng “Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược”, chủ yếu là nếu có đại chiến sẽ dùng bom hạt nhân dội lên đầu Cộng sản Xô viết. Ông cũng là người cho bố trí hỏa tiễn nguyên tử tầm ngắn ở Thổ Nhĩ Kỳ gần biên giới Liên Xô và kế hoạch này đã được trình bày với Giáo Hoàng John Paul. Rồi đây có thể sẽ có thêm những tiết lộ mới về sự hợp tác chiến lược giữa Reagan và Giáo Hoàng trong thời chiến tranh lạnh. Giáo Hoàng chủ hòa, nhưng Ngài vẫn ủng hộ những cuộc chiến nào cần để tiêu diệt những mầm mống gây đại họa cho nhân loại. Bằng cớ là Ngài ủng hộ cuộc chiến của liên quân NATO do Mỹ lãnh đạo ở Balkans, Ngài không ngăn cản Mỹ mở cuộc tấn công sào huyệt khủng bố ở Afghanistan, nhưng Ngài không đồng ý với việc Mỹ đánh Iraq.
Về mặt gọi là “nói chuyện hay tiếp xúc với Cộng sản” thời hậu Xô Viết, John Paul đã đến thăm Cuba năm 1998. Ngài nắm tay Fidel Castro để đòi hỏi cho Giáo hội lấy lại vai trò công khai trong nước Cộng sản này và mở một viện Nữ Tu ở đây. Không ai có thể chỉ trích Ngài đã nói chuyện với Cộng sản hay “nối giáo cho giặc”. Đối với Việt Nam Cộng sản, các phái bộ cấp cao Vatican đã nhiều lần đến Hà Nội thương lượng về việc sắc phong hàng giáo phẩm và lập chủng viện, kể cả việc lập bang giao chính thức giữa Hà Nội và Tòa Thánh La Mã. Liên Xô đã chết, nguời đại diện cho cái bóng ma khổng lồ đó nay thiểu não chỉ còn một người: Gorbachev. Trong khi đó một phái đoàn chính thức Mỹ gồm 5 người do Tổng Thống Bush lãnh đạo đã đến Vatican để cùng các nhà lãnh đạo thế giới tham dự lễ an táng Giáo Hoàng. Các phái đoàn phải hạn chế 5 người vì số tham dự quá đông. Vào ngày thứ sáu, hàng trăm triệu người trên thế giới sẽ theo dõi buổi lễ lịch sử này trên màn hình TV.
Tôi không phải là người Công giáo, nhưng cá nhân tôi vẫn có chút tình cảm riêng đối với Ngài. Cuối năm 1999, tôi có viết một bài Thời cuộc đề nghị chọn Đức Giáo Hoàng John Paul II làm người của Thế kỷ 20, nhưng sau đó báo Time chọn nhà bác học Albert Einstein, tôi chẳng có gì để nói thêm. Nhưng trong lòng tôi, John Paul II vẫn luôn luôn là Người của Thế kỷ 20.



