Hôm nay,  

Người Lái Đò Trên Sông Nhị

02/09/200500:00:00(Xem: 5854)

- (Nhân đọc lá thư của Đức Tăng Thống, Đại Lão Hòa Thượng Huyền Quang gửi Hòa Thượng Quảng Độ khi nghe tin Cộng Sản Việt Nam ngăn chặn không cho phái đoàn Chư Tôn Đức Tăng Ni từ Sài Gòn và Huế vào Bình Định chúc tuế Ngài theo truyền thống sau mùa An Cư Kiết Hạ. Lá thư có những giòng làm nức lòng trái tim Phật tử: “.....Chúng ta đừng lo. Chánh quyền nào cũng nói Muôn Năm nhưng có chánh quyền nào muôn năm đâu! Còn Phật giáo không nói Muôn Năm nhưng Phật giáo đã mấy ngàn năm rồi ...”)
Nắng trưa lồng bóng nước, óng ánh từng giải tơ vàng. Giòng sông im lắng như đợi chờ con đò còn lặng lờ cuối bãi. Hai bên bờ, rặng tre làng cao vút, lả ngọn trong gió vờn hương cau hương bưởi thoang thoảng đâu đây. Mây xanh, gió nhẹ và không gian hiền hòa như cùng với người lái đò chuẩn bị rời bến, sang bên kia sông.
Ông lão buông dầm, tưởng như hờ hững bâng quơ mà cung cách lại vô cùng thận trọng. Ông đội nón lá rách, mặc áo phấn tảo bạc mầu, quần nhiễu thâm. Dưới vành nón, đôi mắt tinh anh sáng quắc không ngớt dõi nhìn đầu sông, nơi lão tin rằng, lát nữa thôi, sẽ có người gọi đò. Quả thế, khi đò ra tới giữa sông thì bờ bên kia đã lố nhố bóng người xuống từ chiếc xe song mã. Họ đưa tay vẫy. Ông lão giơ mái chèo lên, tỏ ý đã biết, rồi chèo nhanh hơn về hướng khách đợi. Không bao lâu, con đò đã lướt tới đầu sông, cặp vào sát bờ. Nhóm khách này ăn mặc sang trọng, nói tiếng Tầu chêm tiếng Việt líu lo:
- Ông lão ơi, đây là đoàn sứ giả của nhà Tống, sang để phong tước cho vua Lê Đại Hành, lão chèo cẩn thận, sang bờ bên kia an toàn sẽ được quan Sứ Lý Giác trọng thưởng.
Ông lái cúi đầu đáp “dạ.... dạ” rồi chống dầm, giữ cho con đò khỏi tròng trành trong khi đoàn sứ giả từng người bước xuống mà người đi đầu, mặc áo gấm đỏ có lẽ là quan Sứ Lý Giác.
Con đò quay mũi, rời bến, trôi êm trên giòng sông biếc. Gió sông mát rượi, nắng dịu dần và đâu đây như vẳng tiếng sáo diều của trẻ mục đồng, vút theo làn gió, lãng đãng không gian. Sứ Tầu tỏ ý hài lòng, cười nói vui vẻ. Đò trôi tới một ngã rẽ thì trên làn nước biếc bỗng xuất hiện đôi ngỗng trắng bơi thong dong bên nhau. Viên sứ Tầu ngắm cảnh nên thơ, tình tứ đó một lúc, bèn ngẫu hứng, xuất khẩu hai câu thơ:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Ông lái đò buột miệng khen:
- Hay quá! Hay quá!
Một người trong đám tùy tùng hỏi:
- Hay là hay thế nào, lão có hiểu nghĩa không"
Ông lão có vẻ bẽn lẽn, thưa rằng:
- Tôi được học có dăm ba chữ, hiểu lõm bõm quan sứ muốn nói:
“Song song ngỗng một đôi,
Ngửa mặt ngó ven trời” (*).
Nếu quan sứ làm tiếp thì sẽ thành bốn câu tuyệt tác.
Lý Giác nghe khen, vuốt vuốt hàm râu, nhìn trời, nhìn đất, lại nhìn đôi ngỗng vẫn thong dong bơi, rồi nhíu mày, nhăn mặt mãi chưa làm tiếp được hai câu. Lúc đó, ông lái đò mới chậm rãi thưa:
- Nếu quan cho phép, tôi xin mạo muội làm thử.
Đang bí, Lý Giác đồng ý ngay. Ống lão thong thả đọc:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo lão thanh ba (+)
Sẵn trớn, ông lái đò đọc lại luôn cả bốn câu bằng tiếng Hán và dịch thẳng ra tiếng Nôm:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo lão thanh ba(+)
Song song ngỗng một đôi,
Ngửa mặt ngó ven trời
Lông trắng phơi giòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi (*)
Lý Giác vỗ tay đôm đốp, khen rối rít:
- Tuyệt! Thật là tuyệt! Thật là đúng ý ta mà ta nghĩ mãi chưa ra. Vừa tả được cảnh êm đềm tình tứ, vừa pha trộn mầu sắc hài hòa. Ông lão học hành tới đâu mà thơ phú hay thế"
Ông lái đò vẫn đều tay khua mái chèo, điềm đạm trả lời:
- Tôi chỉ được học dăm chữ với ông đồ trường làng. Nhưng người Nam chúng tôi, ai chả có tâm hồn thơ phú. Tôi nhà nghèo, phải làm nghề chèo đò nuôi thân đâu có được học hành gì, xin quan chớ quá khen.
Lý Giác ngạc nhiên, tròn xoe mắt nhìn ông lão, và không thể không hỏi:
- Thế những người Nam được học hành thì giỏi tới đâu"
- Thưa quan Sứ, sĩ phu nước tôi, sử trăm trang đọc qua là thuộc, thơ trăm bài xướng họa như không; nhưng thơ phú chỉ là chuyện phụ, liễu ngộ cương thường, cư xử phân minh mới giữ được xã hội nhu hòa, đời sống an vui.
Lý Giác bị lôi cuốn bởi phong thái an nhiên tự tại của ông lái đò và cảm thấy thích thú qua mẩu đối thoại bất ngờ. Sứ Tầu gợi chuyện:
- Lão vừa nói tới cương thường, vậy lão hiểu nhiều về Nho giáo, Lão giáo chứ"
Dưới vành nón lá rách, ai tinh ý sẽ thấy ông lái đò nhếch một nụ cười đầy ý nghĩa khi trả lời:
- Bẩm quan, tôi cũng hiểu chút đỉnh thôi. Đó là hai dòng đạo lớn mà quý quốc đã hết sức muốn truyền đạt sang cho chúng tôi. Đạo thường gắn bó với dân-tộc-tính, dân Nam chúng tôi mà sống được trọn vẹn bằng Nho giáo, Lão giáo thì cũng như chúng tôi đã được quý quốc đồng hóa. Chúng tôi chỉ đang học hỏi, biết chừng nào quý chừng nấy. Tư tưởng Nho-giáo dạy lớp sĩ phu bền chí rèn luyện kinh luân, giúp xã hội thịnh trị. Lão-giáo lại nhìn đời phóng khoáng, không những coi nhẹ công danh mà còn cho đó là mầm mống của sa đọa. Giữa hai tư tưởng có vẻ đối nghịch đó, dân Nam chúng tôi đã uyển chuyển dung hòa.
Lý Giác thực sự bị cuốn hút vào câu chuyện:
- Dung hòa thế nào"

- Bẩm quan, dung hòa để tìm con đường trung dung giữa hai thái cực. Đó là con đường trung đạo, rèn trí giúp đời nhưng không bị phù phiếm lợi danh ở đời lôi cuốn. Đạo Phật đã chỉ ra con đường đó. Bài học đầu tiên Đức Phật dạy cho năm anh em Kiều Trần Như là Tứ Diệu Đế. Đó là sự có mặt của đau khổ, nguyên nhân gây ra đau khổ, sự chấm dứt đau khổ và đường dẫn tới chấm dứt đau khổ. Con người đau khổ chỉ vì nhìn lầm cái vô thường là thường, cái vô ngã là ngã. Nếu nhìn ra chân diện mục từ lý duyên sinh vô ngã thì không cái gì tự nó mà thành, nó ở trong dòng duyên sinh của vạn hữu tiếp nối nhau không ngừng. Giọt nước trong vỏ ốc còn chứa cả đại dương thì làm gì có sinh có diệt nữa.
Cực kỳ xúc động, sứ Tầu hỏi:
- Không sinh, không diệt" Thế cái chết là gì"
- Bẩm quan, người Phật tử còn dốt nát như tôi chỉ hiểu được rằng chết là sự chuyển hóa, như lá vàng rơi xuống, rồi lại thành đất nuôi cây. Lá đâu có chết, lá chuyển hóa để lại là cây đấy chứ! Sự chuyển hóa của con người sau khi chết có thể là sự thăng hoa nếu người đó biết dùng thân huyễn giả tứ đại để quán chiếu, tu tập, chuyển được nhục thân thành pháp thân thường hằng, tức là biết dùng cái HUYỄN để đạt cái CHÂN thì khi tứ đại tan rã cũng chỉ như qua sông bỏ bè mà thôi.
Giọng viên sứ Tầu đầy cảm kích:
- Thật là mầu nhiệm ! Ấy vậy mà bao kẻ qua sông vẫn kéo theo bè vì tâm kẻ ấy nào đã qua sông, phải không ông lái"
- Quan dạy chí phải, đó là kẻ mê lại tưởng mình đã tỉnh nên cứ mê hết đời này đến kiếp khác; nhưng bẩm quan, giáo pháp của Đức Phật mầu nhiệm vô song, nếu hiểu được sâu xa thì từ mê đến ngộ chỉ cần một sát na, nhanh hơn cả một cái chớp mắt.
- Nhanh như vậy thì chúng sanh phải thành Phật hết chứ"
- Bẩm vâng, chúng sanh có thể thành Phật hết nếu tâm chúng sanh không mảy may còn một vọng niệm nào thì bụi trần lấy chỗ đâu mà bám! “Bản lai vô nhất vật. Hà xứ nhạ trần ai.”
Lý Giác bỗng cười vang:
- Ta biết câu này, đây là bài kệ của ngài Huệ Năng đáp lời ngài Thần Tú, thật toàn bích cả ý lẫn lời: “Bồ Đề bổn vô thụ. Minh kính diệc phi đài. Bản lai vô nhất vật. Hà xứ nhạ trần ai” (-) Chính vì bài kệ này mà ngài Huệ Năng được Ngũ Tổ trao truyền y bát.
- Bẩm quan, chính thế. Ngài Huệ Năng không biết chữ, chỉ nghe được câu “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cương mà ngộ đạo, trong khi ngài Thần Tú sở học mênh mông lại vẫn quẩn quanh trong biển văn tự mịt mù. Cho nên, giáo lý Đạo Phật dễ mà khó, khó mà dễ, chính là ở ngay nơi tâm. Tâm lặng lẽ, an nhiên, không dựa vào gì, không níu vào đâu thì tâm ấy trong vắt, nguyên vẹn như vàng ròng, như kim cương . Kỳ Tâm chính là Phật tánh chứ có đâu xa. Khốn nỗi chúng sanh đã quen huân tập, ngỡ vọng là chân nên cứ chìm đắm mãi trong biển mê. Kẻ ngu muội như tôi chỉ hiểu được lờ mờ, chắc còn ngàn đời vạn kiếp nữa mới thoát trầm luân!
Ông lái đò cố tình nói thật chậm câu cuối, như lời than thở về số phận ngu si của mình. Quả nhiên câu nói này đánh động vào cảm xúc của Lý Giác. Viên sứ Tầu trầm ngâm nhìn ông lái đò nghèo khổ, lòng gợn lên sự ngưỡng phục vô cùng. Ông lão chỉ là thành phần quê mùa, ít học mà trí tuệ còn hiển lộ sáng ngời như thế thì lớp sĩ phu của nước Nam này hẳn uyên bác tới đâu! Xứ sở từng chịu sự thần phục Trung Hoa hàng nhiều trăm năm có phải vì họ ngu si man rợ như triều đình Trung Hoa thường nói đâu, mà có lẽ, vì họ đất ít, dân thưa. Phương Bắc quả đã ỷ dân giầu nước mạnh mà hiếp đáp.
Là người có chút lương tri, Lý Giác cảm thấy phải tấu trình sự thật với triều đình, sau chuyến xuôi Nam này. Từ lòng ngưỡng phục khi gặp ông lái đò trên sông Nhị, Lý Giác đã làm một bài thơ lời lẽ nghiêm kính để tặng vua Lê Đại Hành sau khi bái yết vị vua của một nước nhỏ mà dân trí thì vời vợi cao siêu. Bài thơ sứ Tầu dâng tặng vua nước Nam như sau:
Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du
Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu
Đông đô tái biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch
Xa từ thanh chướng, phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.
Bài dịch của Thích Mật Thể rất trong sáng, được lưu truyền đến nay:
May gặp minh quân giúp việc làm
Một mình hai lượt sứ miền Nam
Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ
Muôn dặm non sông mắt chửa nhàm
Ngựa đạp mây bay qua suối đá
Xe vòng núi chạy tới dòng lam
Ngoài trời lại có trời soi rạng
Vòng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.(*)
Bài thơ tám câu, nhẹ nhàng, thanh thoát chỉ để dẫn đến lời gửi gấm ý chính ở câu thứ bẩy : “Ngoài trời lại có trời soi rạng” mà Thiền-sư Khuông Việt thời đó diễn nghĩa là, ngoài Trung Hoa trời cao đất rộng cũng còn những vùng trời khác thanh tú, rực rỡ kém gì. Đó là Lý Giác tỏ lòng ngưỡng phục của mình, tôn kính vua nước Nam như vua Tống vậy.
Thay đổi toàn diện cái nhìn và quan điểm của viên sứ Tầu đối với nước Nam chỉ nhờ dăm câu chuyện làm quà của ông lái đò nghèo khổ trên giòng sông Nhị thôi ư"
Nếu biết rõ hơn, chúng ta phải quỳ xuống, thành kính đê đầu mà đảnh lễ ông lái đò năm xưa vì Ngài chính là Thiền Sư Pháp Thuận, thuộc đời thứ mười, dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngài tuân lệnh vua Lê Đại Hành, cải trang làm ông lái đón sứ giả nhà Tống sang sông để tùy cơ ứng biến, nói được, làm được điều gì ích quốc lợi dân qua chuyến sứ Tống du Nam này.
Đạo Phật là Đạo Trí Tuệ.
Trí tuệ là Ánh Sáng.
Vô minh là bóng tối.
Chỉ những kẻ tột cùng vô minh mới cuồng si mộng tưởng, đem bóng tối chùm lên ánh sáng vì không hề biết rằng bóng tối thì làm sao có thể dập tắt ánh sáng được!"!"
Diệu Trân
(-) Lục Tổ Huệ Năng
(+) Thiền sư Pháp Thuận
(*) Thích Mật Thể

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.