Hôm nay,  

Chuyện Chàng Nàng

03/01/202207:56:00(Xem: 4112)

Truyện ngắn  


h01

Chuyện hoa

 

Thuở còn là tình nhân, chàng chạy xe mấy trăm cây số đến thăm nàng. Chàng đem tặng nàng một cành hoa. Chỉ hoa thôi, không có lá. Thật ra, nàng thấy hoa giống cái lá màu đỏ. Hình như nàng chưa thấy loài hoa này bao giờ. Chàng nói:

 

–  Anh chọn hoa này vì cô hàng hoa bảo hoa này lâu tàn và… Chàng cười cười –  Giá cũng phải chăng.

 

Dạo ấy chưa có Google, nên nàng phải “truy cập” thông tin ngoài chợ. Đảo qua nhiều hàng tiệm, cuối cùng nàng biết, đó là Anthurium. Mãi sau này, tình cờ đọc trong tờ báo Việt, nàng mới nghe thêm tên Việt của hoa: hồng sơn môn.

 

Lại chuyện hoa

 

Mùa hè, chàng về đến nhà, mồ hôi nhễ nhại, tay bưng chậu tiểu hồng màu phấn thật đẹp. Nàng mừng rỡ đón chàng và đón lấy chậu hoa từ tay chàng. Nàng duyệt nhanh trong trí nhớ, xem hôm nay có sự kiện gì “vĩ đại” mà chàng tặng hoa. Ngày cưới đã qua. Chàng đã quên như thường lệ.

 

Nàng rạng rỡ:

 

– Cám ơn anh nghen. Hoa đẹp ghê. Có dịp gì đây anh?

 

– Dịp gì mà dịp. Anh ngồi trong xe ngủ gà, ngủ gật. Đến trạm chót, người ta xuống hết. Ông soát vé kêu anh dậy và chỉ chậu hoa. Anh nói, không phải của anh. Ông bảo, không sao, đây là trạm chót, anh đem về mà dùng.

 

Nàng nghĩ thầm, chàng, tuy không “ga lăng”, nhưng được tính thật thà.                    

 

Chuyện đàn

 

Nàng có học đàn guitar cổ điển, thỉnh thoảng đem đàn ra tính tính tình tang. Vui miệng, nàng rủ chàng học đàn. Chàng nói bằng giọng người Việt gốc… Nam:

 

– Ông bà mình hay nói đàn địch. Em đàn rồi thì phần địch để anh.

 

Nàng bực bực, đành cười trừ. Chớ gây gổ có được gì đâu. Trong những bài nàng hay tập, chàng chỉ nhớ mang máng được giai điệu của bài 14 trong cuốn Carulli. Chàng hỏi:

– Bữa nay sao chưa thấy em đàn cái bài gì mà từng tưng tưng tưng tứng tứng tưng

 

Nàng nhớ, có đọc bài thơ cách đây vài chục năm, khi nàng là còn bé tí ti, lời đối thoại giữa hai người.

 

Không là chúa, chẳng là vua,

Không là lính trận mà ra chiến trường!

Chỉ là nhạc sĩ lang thang,

Yêu đàn là một, yêu nàng là hai!

 

Chẳng ưa chúa, chẳng ưa vua

Chẳng ưa lính trận, chỉ ưa tiếng đàn!

Lấy chàng, nghe hát tình tang,

Còn hơn chung đỉnh giàu sang bất nghì!

 

Nàng ơi, thú thật tình si!

Yêu nàng, nói dối biết gì đàn đâu!

 

Chàng ơi, em biết từ lâu!

Lấy em, em dạy đàn sau ngại gì!

 

Nàng biết tài nghệ của mình, không hề có “tham vọng” dạy chàng đàn. Nhưng, nàng đôi lần ướm ý, rủ chàng đi học chung. Chàng nói, để coi, tới hồi nào mà anh biết đọc nốt, để phụ em lật trang trong khi em đánh đàn, là mãn nguyện rồi. Nghe chàng nói vậy, nàng mát ruột. Cho dù, cái “hồi nào” của chàng không biết đến bao giờ mới thực hiện.

 

Chuyện hát

 

“Gu” nghe nhạc của chàng nàng khác hẳn nhau. Ví dụ như chuyện phổ nhạc bài thơ của Hữu Loan,  Màu Tím Hoa Sim. Nàng mê mẩn Áo Anh Sứt Chỉ Đuờng Tà do Thái Thanh hát. Còn chàng nhất định, Phương Dung ca Những Đồi Hoa Sim mới “dzách lầu”.

 

Vậy mà, có lần họp mặt bạn bè, chàng và một ông bạn già lên song ca bài Mãi Mãi Bên Em của Từ Công Phụng, nói, để tặng hai bà vợ... hiền. Nàng cảm động quá, bèn đồng ca với chàng bài Biển Tình. Chàng, nàng tình tứ cầm tay nhau khi hát đến câu (và có sửa chữa đôi chút mà không xin phép nhạc sĩ) đời anh rất đẹp vì có em, đời em cũng đẹp vì có anh

 

Chuyện ngôn ngữ

 

Nàng vừa về đến nhà, chàng hí hửng khoe:

 

– Lúc nãy Ba qua chơi, Ba dọn “dường” của mình.

 

Nàng giật mình:

 

– Sao anh không dọn đi mà để Ba làm?

 

Chàng tỉnh bơ:

 

– Ba thích, để Ba làm chớ sao lại cản!

 

Nàng nhăn nhó:

 

– Ai mà lại để Ba dọn giường, coi sao được!

 

Chàng vỡ lẽ:

 

– Không, đâu phải dọn “dường” để ngủ, mà dọn “dường” để trồng hoa đó mà.


Nàng thở phào:

 

– May quá, chỉ là Trung Nam bất đồng.

 

Chàng cũng mừng:

 

– Hên thiệt, chớ không là bị “dợ” dũa cho te tua.

 

Chuyện trí nhớ

 

Chàng ngồi trước computer, nóng chân, bèn cởi chiếc vớ cầm nơi tay. Chưa kịp cởi chiếc thứ hai, nghe điện thoại reo. Chàng, tay cầm vớ, tay nhấc máy. Nói chuyện xong, nàng thấy chàng lom khom như đang tìm kiếm gì. Nàng hỏi:

 

– Kiếm gì vậy anh?

 

Chàng giơ giơ chiếc vớ trước mặt:

 

– Không biết đâu mất chiếc vớ rồi.

 

Nàng nhìn xuống chân chàng:

 

– Có phải còn nơi chân anh đó không?

 

Chàng phì cười:

 

– Ừ, đúng rồi.               

 

Chuyện nhìn nhau

 

Có lần đi chung với chàng mấy trạm xe điện ngầm, nàng lấy mắt kính ra mang, tính nhìn rõ trang quảng cáo trên báo. Nhưng nàng đổi ý, quay qua tán dóc đôi câu bâng quơ với chàng. Chàng phải xuống xe, chàng vuốt má nàng, nói: “Chiều gặp”. Nàng nhìn vào tờ báo. Nàng hơi hoảng, vì thấy chữ không được rõ như mọi khi. Nàng lo lo, không lẽ mình lên độ nhanh như vậy. Nàng không đọc nữa, nhìn mông lung ra cửa sổ. Nàng có cảm tưởng, hai người đối diện đang nhìn nàng khó hiểu. Chẳng lẽ họ chưa bao giờ thấy đàn ông Á Châu âu yếm vợ nơi công cộng. Hay là, hôm nay nàng duyên dáng, xinh xắn khác thường. Nhưng ánh mắt của họ không có vẻ gì đang chiêm ngưỡng nàng. Nàng nghĩ, không đọc sách nữa thì gỡ mắt kính xuống. Khi bỏ kính vào túi, tay nàng chạm phải miếng thủy tinh tròn cứng. Nàng rụng rời. Thì ra, nãy giờ, nàng làm… độc nhãn đại hiệp. Trời ơi, vậy là, lúc nãy “bịn rịn” chia tay, chàng đã bỏ mất phần đầu của một câu nói nổi tiếng: Yêu nhau không những chỉ nhìn nhau, mà cùng nhìn về một hướng…

 

 Chuyện  chu đáo

 

Nàng đi làm xa ở xứ nóng. Về nhà, đúng ngay ngày vào đông bất ngờ, tuyết trắng xóa. Nàng rất nhát lạnh. Đi đón nàng, chàng cẩn thận gói ghém áo lạnh và giày ống. Sau khi làm xong thủ tục chào đón nhau, chàng kéo va –li của nàng lại ghế. Chàng bảo nàng mặc áo khoác và đổi giày. Nàng xổ giày trong bao ra. Đích thị là một đôi giày ống mùa đông, có hai chiếc đàng hoàng. Nhưng, một chiếc màu đen, một chiếc màu nâu. Và, cả hai chiếc cùng là giày bên phải. Nàng không nhịn được cười:

 

– Anh coi nè, vầy thì làm sao  đây?

 

Chàng hơi quê, cũng cười:

 

– Ai mà biết em mua chi hai đôi giày giống hệt nhau như vậy.

 

Nàng giỡn cho chàng đỡ “xệ”:

 

– Không sao đâu anh. Chắc đôi ở nhà cũng bị lỗi như vậy.

 

Hôm đó, dù hơi bị lạnh chân một chút, nàng vẫn thấy vui lắm. Chàng hơi lơ đễnh một tí, nhưng quả thật chàng chu đáo chứ bộ.

                               

Chuyện dài ngày

 

Từ khi thằng con vào đại học, “ra riêng”, chàng nàng thấy nhà vắng quá. Bạn bè có người bảo, giống vợ chồng son. Người khác cãi, son nồi gì, giống tụi tui đây, như hai con khỉ già. Nàng nghĩ, hình như người bạn cãi có lý. Thỉnh thoảng, chàng ca ư ử: Tôi dới nàng, hai đứa già như nhau, mơ ước cùng dui cho đến ngày bạc đầu... Lâu lâu, nàng hát ê a: May mà có nhau, đời còn dễ thương...

 

Ngó đi, ngoảnh lại, chàng nàng góp tuổi hùn chung, nay đã tròn bách niên. Theo lịch trên tường, năm sắp hết, tết sắp đến. Nhưng, đất trời nơi chàng nàng ở, vẫn đang co ro trong tiết đông buốt giá. Nàng mượn mấy câu vè ngày xuân của anh bạn, để chàng nàng chúc tết lẫn nhau:

 

Tân niên xin chúc quý bà

Luôn tìm được chút Mình à, Mình ơi.

Dẫu rằng tuyết đổ, mưa rơi,

Vẫn luôn cần chút Mình ơi, Mình à.

 

Các ông dầu trẻ, hay già,

Chớ đừng quên tiếng Mình à, Mình ơi".

Dẫu đi khắp bốn phương trời,

Vẫn luôn nhớ gọi Mình ơi, Mình à".

 

 Hoàng Quân

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.