Hôm nay,  

Chị Ơi!

04/03/202221:47:00(Xem: 5532)

Truyện ngắn:


cheo do 

 

Tôi nhận được cú phôn từ Việt Nam vào một buổi tối khi cả nhà sắp sửa đi ngủ. Bên kia đầu dây, giọng nói của đứa em trai kế lạc đi vì xúc động, báo tin chị Tr. vừa mới chết ở Vĩnh Long. Tôi bàng hoàng và đau đớn, lặng đi một lúc, chỉ buông được 1 câu “Thật vậy à?”  Tôi không thể tin được chị tôi qua đời khi tuổi vừa mới 44, để lại đàn con 5 đứa bơ vơ trong khi ba của chúng, một gã ăn hại, làm biếng, chỉ lo nhậu nhẹt, còn mải chạy theo các người đàn bà khác. Buông phôn xuống, tôi chẳng nói được câu nào, tự dưng những giọt nước mắt cứ lăn dài trên má.

 

*

 

Trên con tàu xuôi Nam, đứa bé gái 2 tuổi, bước dài bước ngắn, lon ton vừa đi vừa chạy, nắm chặt tay người chị cả 4 tuổi, cùng với cha mẹ và đứa em trai đang được địu trên lưng mẹ, cả gia đình bỏ lại quê hương, nhà cửa, ruộng vườn để di cư vào miền Nam lánh nạn cộng sản. Đặt chân lên miền đất tự do nhưng xa lạ, chưa biết làm gì nuôi 3 đứa con, ba tôi đăng lính. Mỗi lần đơn vị di chuyển, ông phải đem cả gia đình đi theo. Rồi lần lượt, chúng tôi, 6 đứa nữa lần lượt chào đời, mỗi đứa một nơi sinh khác nhau. Lần đóng quân lâu nhất là trong phi trường tỉnh Sóc Trăng, một tỉnh rộng lớn nằm bên giòng Hậu Giang, miền Tây Nam, nơi đồng lúa bạt ngàn, xanh tươi, cò bay thẳng cánh. Chị em chúng tôi trải qua thời thơ ấu bình yên, tuổi học trò tung tăng những bước chân sáo trên mảnh đất tươi đẹp, hiền hòa này.

 

Cô bé hai tuổi ngày xưa giờ trở thành một cô thiếu nữ tuổi trăng tròn, cao lớn phổng phao, xinh xắn, dễ coi trong khu gia binh toàn gia đình con em binh sĩ tiểu đoàn 212 pháo binh. Nhà đông con, vả lại chị học hành không giỏi giang như chúng bạn, nên xin thôi học, ở nhà giúp má tôi và bà chị cả mở một tiêm tạp hóa và cà phê, kiếm thêm tiền phụ giúp gia đình và trông coi các em. Ngoài việc phụ giúp má tôi trông coi quán và bán hàng cho khách và bà con trong khu gia binh, chị siêng năng, cần mẫn, nhanh nhẹn, khéo léo, và là đầu bếp chính của gia đình, cả nhà đều thích những bữa ăn nóng hổi ngon lành chị nấu. Má tôi hay kể, lúc nhỏ tôi là đứa hay khóc và khóc rất dai, không ai dỗ được, chỉ có chị là người có thể dỗ tôi nín. Vì vậy, lúc nhỏ tôi thương chị nhất nhà, hay đeo theo chị đi chơi trong xóm. Chị cũng thương tôi hơn các đứa em khác vì tôi còi cọc, hay bệnh lặt vặt, khó nuôi.

 

Tôi cảm nhận được chị thương tôi hơn những đứa em khác nên tôi hay làm nũng với chị mà không dám nhõng nhẽo với bà chị cả. Má tôi nhớ, có đêm tôi bị sốt, mũi chảy thò lò, người oặt oẹo, khóc rề rề cả đêm, không ai ngủ được, chị cứ ẵm tôi trên vai, vỗ về, săn sóc chu đáo. Khi mệt quá, chị lại đặt tôi nằm xuống giường, tôi lại khóc, chị đi kiếm giấy báo cũ đốt lên để tôi được nhìn thấy bóng ngọn lửa nhảy múa trên tường thì tôi nín khóc. Lửa vừa tắt, tôi lại khóc lè nhè, dai dẳng, chị phải đốt tờ báo khác để dỗ dành cho đến khi tôi mệt lả đi vì hết hơi, và chìm vào giấc ngủ chập chờn. Chị nhẹ nhàng lau mặt cho tôi bằng khăn ấm rồi mới trở về nằm trên cái võng kế bên.

 

Lớn hơn một chút, mỗi lần theo má đi chợ, chị để dành tiền mua cho tôi khi thì một món đồ chơi hay vài miếng bánh da lợn mà thôi thích. Chị chăm chút cho tôi còn hơn má nên tôi thích lẽo đẽo đi theo chị suốt ngày. Sau này, lớn lên đi học xa nhà, chị là người hay viết thơ cho tôi kể chuyện gia đình. Nhìn nét chữ viết ngoáy cứng cáp của chị, tôi vui thật nhiều vì dù tôi đi xa, chị vẫn nhớ thương, lo lắng cho thằng em bé bỏng của chị, không biết nó có tự lo cho bản thân được không. Lần nào chị cũng gởi tôi một ít tiền tiêu vặt để đi phố với bạn bè. Cuối thư, chị không quên nhắc nhở phải giữ ngực cho ấm trời Đà Lạt lạnh lắm, nghen em.

 

Như bao cô gái vào tuổi mộng mơ, chị vẫn hay thả hồn lang thang, chấp chới bay theo những cánh bướm lượn lờ trên những bông hoa, để mắt dõi theo những đám mây trời bàng bạc trên bầu trời xanh, mơ câu chuyện thần tiên có chàng bạch mã hiệp sĩ hiện về trong giấc mơ. Má tôi khẽ lắc đầu, gọi nhiều lần chị mới giật mình dạ to một tiếng, trở về với thực tại. Cuộc sống trong khu gia binh thời đó, lính tráng đi ra mặt trận, hết chiến dịch lại về nên lúc nào trong trại cũng đầy bóng dáng những thanh niên hào hùng trong bộ đồ trận vương mùi thuốc súng và những thư sinh vừa rời ghế nhà trường, khoác áo “trây di” theo tiếng gọi non sông. Trong chốn ba quân đó, có một chàng trai khoảng 20 tuổi, dáng người gầy nhưng cao, mũ nồi đen, áo trận bạc màu, binh chủng thiết giáp. Anh ta hay ghé quán nhà tôi uống cà phê, mua bao thuốc lá, thỉnh thoảng ngồi lại cao giọng kể chuyện hành quân và các trận chiến ác liệt ngoài sa trường pha lẫn một chút láu lỉnh, khi cao hứng anh ta kể mình là nhân vật chính, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, luôn xông pha về phía trước, coi kẻ thù như là… củ khoai.

 

Thời chiến tranh, sống nay chết mai, hầu hết các cô gái miền Nam đều ước mơ được làm người yêu của lính dù biết các chàng Kinh Kha ra đi chưa chắc có ngày trở về. Hình ảnh người lính Việt Nam anh hùng là hình ảnh đẹp nhất thời bấy giờ trong tim người dân miền Nam Việt Nam nên chị tôi cũng thầm yêu anh lính Thiết Giáp ăn to nói lớn kia.

 

Rồi anh chàng lính Kỵ Binh đem trau cầu đến hỏi khi chị tôi mới vừa tròn 17 tuổi. Chị tôi lên xe hoa về nhà chồng tận huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Ngày cưới, tôi nghe họ đàng trai kêu chị tôi là chị Bảy. Lúc chị xách va li rời nhà, tôi khóc rất nhiều, không muốn cho chị đi. Tôi hụt hẫng, chơi vơi. Tôi biết tôi sắp mất một người chị thân yêu nhất. Nhưng một đứa con nít thì làm gì được. Chị tôi phải theo chồng đi khắp 4 vùng chiến thuật và năm sau, tôi đi học xa nhà, vào một trường nội trú; Còn chị phận gái tòng phu, chị phải theo chồng con mỗi lần đơn vị di chuyển. Chúng tôi chỉ còn liên lạc với nhau bằng thư từ

 

Sau năm 1975, tất cả mọi binh lính, sĩ quan, và công chức miền Nam đều phải trải qua những tháng năm của kiếp người trong những “trại súc vật”, anh rể tôi may mắn chỉ đi học tập cải tạo 5 ngày vì chỉ là hạ sĩ quan, rồi đem vợ và 3 đứa con về quê nội. Cha mẹ chồng chia cho anh chị vài sào ruộng để nuôi đàn con tuổi đang ăn đang lớn. Vốn cần cù, siêng năng, chị tôi tần tảo nuôi chồng nuôi con nhờ vào chiếc xuồng ba lá chất đầy cần xé, giỏ lác với đủ thứ gà vịt, tôm cá và nông sản, hằng ngày xuôi ngược trên con sông quê bất kể nắng mưa dãi dầu.

 

Từ chiếc xuồng con ba lá bơi bằng dầm, chị dành dụm mua được chiếc ghe lớn hơn với hai mái chèo đứng, chị tôi chèo đi trong xóm thu mua tất cả mọi thứ, đem đến chợ huyện bán. Đến trưa, chị lại hối hả mua hàng xén, mắm muối, đường thẻ, và những thứ hàng hóa cần thiết mà người dân trong xóm vì xa chợ, không thể mua được. Chị một mình hì hục chất hàng lên ghe thật khẳm, theo con nước lên, xuôi về nhà, dưới ánh nắng vàng chói chang, chênh chếch, mồ hôi pha lẫn nước mắt vì thỉnh thoảng chị cảm thấy một cơn đau nhói như phá tan lồng ngực, đau đến ứa nước mắt không thể ngăn lại được. Một thân một mình, đi sớm về trưa, chị đem hàng về nhà để hắn và mấy đứa con bầy bán trong một cửa hàng tạp hóa mà chị đã mở phía trước nhà để kiếm thêm tiền chợ. Mấy sào ruộng chỉ đủ gạo cho cả gia đình 7 miệng ăn, mà 2 đứa sau này ra đời trong những ngày gạo châu củi quế sau năm 1975.

 

Thời gian này, tôi cũng long đong lận đận, tù tội rồi vượt ngục. Không dám về nhà, tôi phải phiêu bạc giang hồ. Tôi lại chạy về với chị. Chị lúc nào cũng giang rộng vòng tay thương yêu đón đứa em lưu lạc thiếu may mắn, và luôn dúi vào tay tôi ít tiền xài. Có những đêm khuya khoắt, mấy đứa cháu ngủ đã lâu, anh rể tôi còn mải trăng hoa nơi nào, tôi ngồi một mình đọc sách bên ngọn đèn dầu chờ chị về. Thỉnh thoảng tôi bước ra sàn nước sau nhà sát mé sông, nhìn con nước lên hình dung coi giờ này chị tôi sắp về gần đến nhà chưa. Nghe tiếng lạch cạch của mái chèo va vào mạn xuồng, tôi buông cuốn sách, chạy vội ra giúp chị khuân hàng hóa lên nhà. Nhìn chị mệt nhọc, tất bật, lam lũ, xác xơ, lòng tôi xót xa muôn vàn, chẳng biết làm gì đỡ cho chị. Ăn vội chén cơm, chị ngồi xuống, cắm cúi lo tính toán sổ sách. Nhìn bóng hình cam chịu của chị soi trên vách, nước mắt tôi chực trào ra.

 

Chị đến gần, đặt tay lên vai tôi hỏi sao chưa đi ngủ. Tôi nắm lấy hai bàn tay nổi những đường gân xanh của chị:

 

– Chị chưa về, em làm sao ngủ cho yên.

 

Tôi thấy mắt chị mờ đi một thoáng hơi sương. Chị khẽ bảo:

 

– Thôi em đi ngủ đi, mai chị không đi chợ.

 

Vậy mà chị em tôi đâu có nhiều dịp ngồi lại với nhau trò chuyện được lâu. Chị khuyên tôi ở lại đây lấy vợ, làm ăn, chị sẽ làm mai cho một đứa con gái quê hiền lành, biết chịu cực, hay lam hay làm. Vấn đề hộ khẩu chị lo cho, tôi không phải bận tâm, vì ở đây toàn bà con xóm làng, không ai làm khó dễ đâu. Tôi biết chị muốn chị em được ở gần nhau, nhưng tôi còn ôm giấc mộng lớn, chưa muốn neo thuyền ở bất cứ một bến đỗ nào. Đó là lần cuối cùng tôi gặp chị, tôi lại ra đi vào sương gió về một nơi vô định.

 

Nhờ sự cần cù bương chải, chăm chỉ của chị, trong thời kỳ “quá đọi” để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cả gia đình không một bữa nào phải ăn cơm độn khoai. Mỗi ngày khi gà chưa gáy sáng, khi vạt cỏ bên đường còn ướt đẫm sương đêm, chị tôi thức giấc, nhẹ nhàng với tay lấy 2 mái chèo và giỏ xách, một mình chèo ghe đến Cầu Đôi, gởi ở đó, lo chuẩn bị cho chuyến đi buôn đến Sài Gòn kiếm thêm gạo về nuôi 5 đứa con khờ dại. Ngày đêm vất vả, đầu bù tóc rối, không ngại một sương hai nắng, gian khổ, chị khéo léo né tránh công an kinh tế chuyên rình rập bắt hàng hóa của dân chúng, nhờ vậy gia đình có thêm của ăn của để.

 

Kinh tế gia đình khấm khá một chút thì tật mèo mỡ của anh rể tôi càng hoang dại hơn, những ngày ở nhà với vợ con đếm được trên ngón tay, hắn chỉ trở về khi hết tiền, vét sạch hộc tiền tiệm tạp hóa rồi lại bỏ đi. Khi không có tiền, hắn đe dọa mấy đứa con phải đưa tiền cho hắn đi buôn bán. Nếu không đưa, hắn đánh đập tàn nhẫn nên con cái sợ hắn như sợ cọp. Có lần hắn đánh thằng con lớn phải đi cấp cứu, tưởng chết. Ở dưới quê, không có gì dấu được lâu, chuyện vợ bé, trai gái cũng đến tai ba má và anh chị em gia đình hắn. Ai cũng xót thương cho nỗi nhọc nhằn và hoàn cảnh của chị tôi. Họ lên tiếng bênh vực và đứng hẳn về phía chị tôi, chửi hắn thậm tệ. Họ khuyên nhủ, cầu xin, hết cứng rắn rồi lại mềm dẻo, nhưng tánh nào tật nấy, hắn không nghe một ai. Cha ruột hắn vốn là một thày dạy võ, ông Hai Đính giận quá, bơi xuồng qua tận nhà hắn, vác cây dầm bơi đập cho hắn mấy cây. Hắn nhảy ùm xuống sông, vừa bơi vừa la lớn:

 

– Bớ hàng xóm, Hai Đính quýnh Bảy Tân.

 

Ông già 70 tuổi, tuy là võ sư, làm sao có sức rượt đuổi hắn, ông hậm hực bơi xuồng về và đòi từ hắn, không cho hắn qua nhà mấy ngày giỗ chạp hay Tết. Hắn không cần, vẫn đi mèo mỡ, khi hết tiền về nhà cố vét được ít tiền rồi lại đi. Chị tôi vẫn cắn răng cam chịu, nhẫn nhục vì con cái, không dám than thở cả với cha mẹ ruột mình. Khi đó, cuộc đời tôi vẫn lang bạt sống mòn trong cái xã hội đọa đày, vẫn nuôi mộng hải hồ; Tôi được mời làm tài công, lái tàu vượt biển đến trại tỵ nạn Philippines, ở đó hơn 2 năm, chờ đi định cư ở Mỹ. Tôi cắm đầu cắm cổ đi làm đi học, đầu tắt mặt tối, tôi quên tất cả, tôi quên bạn bè, quên gia đình và quên luôn chị tôi cho đến ngày học xong, ra trường, và có việc làm đầu tiên, chưa kịp viết thơ cho chị thì hay tin dữ.

 

Dòng sông quê vẫn đục màu nước phù sa, tiếng bìm bịp vẫn kêu con nước lên nước xuống, nhưng một buổi sáng, chị tôi không còn dậy nổi để đi chợ. Chị mở mắt. Trần nhà chông chênh xoay chuyển. Chị có cảm giác như thân thể mình bồng bềnh tựa chiếc thuyền trôi đi, cứ trôi đi trên sông nước, trong sương khói mênh mông, và dật dờ đi vào một vùng tối mịt mù. Chị cảm nhận hơi lạnh thấm vào xương tủy, một nỗi đau đớn kinh khủng vừa vỡ ra trong lồng ngực. Trong vùng mơ ảo đó, chị nghe thấy tiếng của chính mình - “Hãy ngủ đi, ngủ cho quên đi nỗi nhọc nhằn, ngủ cho thật say để thoát khỏi nợ trần gian”. Chị sụp đổ xuống trong vùng bóng tối im lặng sâu thẵm đó. 

 

Đến sáng, mấy đứa con nhìn xuống bờ sông, thấy chiếc ghe của má tụi nó vẫn còn cột hờ hững ở đó. Chúng vội chạy vào buồng, má tụi nó nằm như chết, mặt trắng bệch, trên gối vết máu còn tươi nguyên. Chúng khóc la và sợ hãi kêu cứu, nhưng ba tụi nó không có ở nhà. Một đứa bơi xuồng qua bên ông bà nội. Chú Út lấy chiếc vỏ lải máy đuôi tôm chở má tụi nó lên bệnh viện huyện. Họ cho biết cô bị lao lực và chuyển sang ung thư phổi giai đoạn chót, không còn sống bao lâu, nên đem về nhà lo hậu sự.

 

Vì yêu thương đám con dại khờ, chị cố sống lây lất hơn 5 tháng nữa, với thuốc men khi có khi không. Nhìn đàn con dơ bẩn, nhếch nhác, quá đau lòng, chị gắng gượng dậy lo cơm nước cho chúng bữa đực bữa cái trong khi chồng còn mãi chạy theo những hình bóng khác. Ba má tôi cũng cố hết sức giúp đỡ tiền bạc lẫn công sức, đem mấy đứa con về bên ngoại nuôi. Ngày trước, tình yêu chồng con đã giúp chị tôi có sức mạnh vượt qua những cơn đau âm ỉ ngày một ngày hai; Bây giờ nỗi buồn đau người chồng bội bạc gặm nhấm dần thân thể bệnh hoạn khiến chị liệt giường và không bao giờ còn ngồi dậy nữa. Mấy đứa con không biết săn sóc mẹ nên lưng chị bị lở loét vì nằm một chỗ quá lâu không có người lau sạch và xoay trở thân mình. Chị tự biết mình sẽ không còn sống bao lâu nữa chỉ lo các con rồi đây ai nuôi chúng mà hai hàng nước mắt lặng lẽ chảy ướt cả gối.

 

Bốn câu thơ của thi sĩ Tế Xương như một lời tiên tri vận vào cuộc đời chị tôi đúng đến từng chi tiết nhỏ:

 

Quanh năm buôn bán ở ven sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng,

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.


Một hôm, hắn trở về nhà với một người đàn bà mà hắn giới thiệu là một y sĩ “cách mạng” của bệnh viện xã. Chị tôi mệt mỏi, nặng nề, mở mắt nhìn người chồng bội bạc cùng với người cướp chồng mình mà không nói lời nào. Sức sống cạn dần trong cái thân xác gầy gò chỉ còn là bộ xương, trong đôi mắt đẫm lệ của chị tôi, lặng lẽ một nỗi đau buồn uất nghẹn. Còn niềm vui ác độc nào hơn niềm vui khốn nạn của người chồng phụ bạc, nỡ lòng đâm thêm một nhát dao chí mạng vào người đầu gối tay ấp của mình đang hấp hối trên giường bệnh.

 

Cả hai ngủ với nhau ngay trong căn nhà mà chị tôi đã đổ mồ, nước mắt và xương máu xây dựng lên. Hắn hỏi chị còn vàng bạc thì đưa hắn làm vốn để đi buôn thuốc Tây với cô y sĩ cách mạng. Chị tôi thừa hiểu hắn có biết một chữ tiếng Tây tiếng U gì đâu mà đi bán thuốc Tây. Hắn lôi chị ngồi dậy và tra hỏi, chị nói còn chút gì thì đã xài hết vào thuốc thang. Chị tôi đã kín đáo gởi lại lại ít chỉ vàng bên nội cho đám con khờ dại sau này, phòng khi chị không còn nữa. Hắn đạp chị một cái thật mạnh vào bụng, chị tôi đổ gục xuống sàn nhà. Cả hai bỏ đi trong tiếng khóc thất thanh của mấy đứa con. Đứa con trai lớn vừa lấy vợ đang ở xa, không có ở nhà. Con cọp còn không nỡ ăn thịt đồng loại mình. Con chim Ương còn biết gào khóc tiếng bi thương bên xác con chim Uyên, cho đến lúc kiệt sức mà chết, huống chi con người.

 

Nửa tháng sau, vào một ngày gần cuối năm 1996, chị tôi vĩnh viễn rời xa cõi đời khốn khổ lúc vừa tròn 44 tuổi, mang theo nỗi buồn da diết và u uất như từ tiền kiếp nào. Chị bỏ lại 4 đứa con bơ vơ, chúng lớn lên hoang dã như cỏ dại. Ông nội mấy đứa nhỏ, ba hắn, qua nhà nhìn thân xác cô con dâu nằm héo hắt trong quan tài, chỉ biết lắc đầu khóc và than lớn tiếng để cho thằng con trời đánh nghe rõ:

 

– Con ơi, ba xin lỗi con, ngàn lần xin lỗi con.

 

Má tôi, từ xa đến khóc con, chỉ nấc lên nghẹn ngào:

 

– Mẹ chưa đi, sao con lại ra đi trước mẹ.

 

Một đám tang buồn thảm trong một ngày mưa dầm dề. Trời đất như nhỏ lệ khóc thương cho linh hồn chị tôi, một vì sao lẻ loi vừa rơi rụng ở cuối trời. Rồi một ngôi mộ đất nằm buồn bã cô đơn bên hàng cau xơ xác ven sông ở quê chồng. Chị tôi nằm lại đó, cạnh bờ sông nước lớn nước ròng, sóng bồng bềnh, gió mênh mông thì thầm qua kẽ lá ru hồn chị êm đềm đi vào giấc ngủ thiên thu. Chị bỏ lại sau lưng lớp áo trần gian đầy nhọc nhằn, rũ bỏ những bụi trần lắng đọng của thời gian và không gian để đi về miền đất miên viễn không có đau khổ, bạc tình. Chị của tôi vừa đi trọn kiếp người trong cái thế giới đầy nhọc nhằn, đau thương, và khổ ải.

 

*

 

– Năm đó con mới 12, 13 tuổi.

 

Đứa con gái út chị tôi, lúc này 16 tuổi, vừa khóc vừa kể cho tôi nghe sau ngày cùng ba nó qua đến Mỹ theo diện vợ bảo lãnh về tiểu bang Washington. Một bà bồ cũ của hắn, có 2 đứa con lai, từ Mỹ về Việt Nam chơi, gặp và cưới hắn, rồi đem hắn và đứa con gái út qua Mỹ. Tôi đón cháu tôi về nhà để nuôi nấng và gởi nó đi học nghề.

 

Hôm nay nhớ chị, tôi lục lại trong xấp giấy tờ cũ, thấy lá thư cuối cùng viết cho tôi hơn 1 năm trước khi chị lâm bệnh nặng, nằm liệt giường. Tôi mở ra đọc, nước mắt chảy ướt trang thư tay, làm nhạt nhòa những giòng chữ viết tay rắn rỏi của chị: “…chị viết cho đứa em xa quê hương mà chị thương nhiều nhất”. Chị yêu thương của em, chị là vầng trăng sáng, là đại dương mênh mông mà vòng tay em không ôm hết được từ những ngày còn thơ dại. Từ nay em mất chị vĩnh viễn rồi. Từ trong lồng ngực tôi một tiếng kêu đau thương bật lên, không nén lại được, tôi thổn thức kêu lên “Chị ơi”. Chị tôi trở về với cát bụi ngày 6 tháng 9, năm 1996.

 

– Nguyễn Văn Tới (LT)

(3/2022)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.