Hôm nay,  

Banmethuột -- Khúc Phim Buồn

09/03/202219:13:00(Xem: 2822)

Ban_Don


 

(Viết dể nhớ Banmethuột, ngày 10 tháng 3, 1975)

 

Hằng năm cứ mỗi lần đến ngày 10 tháng 3, Hải không giấu được nỗi cảm xúc của mình, có những khi cảm xúc kéo dài đến hàng tuần, và những lần như vậy, anh cơ hồ đi lại những khu phố thân quen của Banmethuột một thời thơ mộng và đáng yêu. 

 

Thoảng chốc mà đã mấy mươi năm, tóc anh đã điểm bạc, bạn bè trang lứa biết bao nhiêu kẻ đã ra đi, nhưng trong lòng anh, khi nhớ về quê hương cũ, vẫn nghe lòng sục sôi thời tuổi trẻ, trong huyết quản anh, dòng máu luân lưu cuồn cuộn như thủa trai tráng một thời, và bao mến yêu nơi quê hương ấu thơ đó hiện ra mồn một trong tâm trí anh.

 

– Này, ông đã nghe tin gì chưa vậy?

– Thì tụi nó đang di chuyển về Banmethuot cấp Sư đoàn và là tụi chính quy, có phải ông muốn nói về tin này không?

 

– Ừ phải rồi, bên Cảnh sát cũng đã được Chủ nhân của 7 chiếc xe cần câu tới khai báo là xe của họ đi làm rừng đã bị tụi nó tịch thu ở khu vực Đức Lập vùng Tây Bắc, và khu Băng Đon cũng bị 3 chiếc.

 

– Không Trợ đã chụp được không ảnh hoạt động của tụi nó, đã gởi công điện cho Quân Đoàn và các đơn vị liên hệ rồi.

 

– Cũng mong là không có gì.

 

– Dĩ nhiên là không có gì, vì nơi đây là quê hương của tôi mà!  Hải vừa nói vừa cười.

 

Đó là khoảng thời gian cuối tháng 2 năm 1975, anh và Chi nói chuyện với nhau 3 tuần trước ngày 9 tháng 3 năm 1975, ngày Việt Cộng tràn ngập Chi Khu Đức Lập thuộc Tỉnh Quảng Đức, và đêm hôm ấy, lúc 2 giờ 20 sáng ngày thứ 2, 10/3/1975, cộng quân pháo kích thị xã Banmethuot, mở đầu cho trận tấn công vào thị xã này.

 

Sáng ngày 10 tháng 3, lúc 6 giờ 30 sáng, tại Ngã Sáu, trước nhà thờ Chính Tòa Banmethuot, khi xe của Ty Thông Tin còn loan đi lời kêu gọi đồng bào “ai ở yên nhà nấy, tình hình thị xã vẫn còn yên tĩnh”, thì bộ binh của cộng quân đã tràn chiếm góc Tây Bắc của Phi Trường L19 và xâm nhập khu vườn cà phê cuối đường  Phan Chu Trinh, đồng thời các chốt điểm trọng yếu của Cảnh Sát ở mặt Nam thị xã đã phải xin lệnh rút để tránh bị tiêu diệt.

 

Tình hình thị xã từ đường Võ Tánh, Phan Chu Trinh, chay. xuống Nguyễn Tri Phương kéo dài cho đến Suối Đốc Học và Khu Buôn A Lê A, A Lê B vẫn còn trong sự kiểm soát, nhưng rải rác một vài nơi như khu vực Trần Hưng Đạo, (Ty Ngân Khố đi vào) và khu Kim Mai đã có những gia đình bồng bế con, gồng gánh chạy vào trung tâm thị xã, đến nương náu trên đường Lý Thường Kiệt, khoảng giữa  Ama Trang Long, và Quang Trung, chen chúc nhau trong tiệm bi da Thanh Sơn.

7 giờ 30, sáng ngày Thứ Hai, 10 tháng 3, 1975, bộ binh của cộng quân đã từ khu vườn cà phê sau lưng Tòa Giám Mục, theo đường Phan Chu Trinh xậm nhập thị xã và chiếm khuôn viên Nhà thờ Chính Tòa, ở Ngã Sáu. Rồi tất cả như một khúc phim lần lượt hiện ra trông trí Hải. Khu nhà anh ở bị trúng đạn bốc cháy, nhà hàng Hoàng Vinh, khói lửa cuộn vòng dâng cao, thành phố náo loạn trong chốc lát, từng nhóm người tụ tập từng góc phố, từ  đường Y Yút, Khu Trường Tàu, Chùa Khải Đoan, cho tới  Khu Hoàng Diệu - Lê Văn Duyệt, Phạm Phú Quốc - Hàm Nghi…

 

Một số dân cư từ Buôn A Lê A, khu Suối Đốc Học lại gồng gánh, bồng bế nhau đổ về Trung tâm thị xã và ẩn náu trong khu chợ, sau nhà hàng Vĩnh Thuận. Cho đến lúc này, người dân thị xã vẫn chưa tin Banmethuột sẽ mất, vì hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh còn đó, Tiểu Khu còn đó, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát còn đó, và nhất là tin truyền miệng cho biết Biệt Động Quân đã vào Trường Trung Học Tổng Hợp, đang di chuyển về Ngã Sáu thị xã, và Khu Tư Dinh Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB.

 

Nhưng rồi người dân thị xã đã tuyệt vọng khi hay tin đơn vị Biệt Động Quân xâm nhập thị xã chỉ để đưa gia đình tướng Tường, Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB ra khỏi thị xã mà thôi.

 

– 11giờ 20, sáng ngày 10 tháng 3, 1975, 1 chiếc T54 của cộng quân  bị bắn hạ trước cổng Tiểu Khu, đường Thống Nhất.

 

– 1 giờ chiều ngày 10 tháng 3, 1975, Trung tâm Hành Quân Tiểu Khu bị pháo sập, mọi liên lạc bi gián đoạn.

 

– 2 giờ 20 chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, Tiểu Khu di tản ra Trung tâm huấn luyên của Trung Đoàn 45 BB, cây số 5.

 

– 3 giờ 40 chiều cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia di tản khỏi thí xã, và Banmêthuột lọt vào tay quân cộng sản.

 

Tất cả những sự kiện ấy, và hình ảnh tan hoang của phố thị hay Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia Xã Lạc Giao, Tòa Hành Chánh, các khu công sở…  mãi mãi như vết tích hằn sâu trong tâm trí Hải.

 

Những cuộc trả thù cá nhân, những người làm chỉ điểm viên cho cộng quân lục soát tư gia của Sĩ quan, viên chức chính phủ, những hành động trả tư thù man rợ đến nay đã mấy mưoi năm nhưng vẫn như mới xảy ra đâu đây, ở hôm qua hay tuần trước trong trí óc anh! 

 

Bao nhiêu sách vở, giấy tờ, văn khế, văn bằng, đều đem đốt hết hay bị đốt sạch, nhất là các sách ngoại ngữ, Anh Văn, Pháp Văn, Tự điển Anh Pháp hay Hán tự đều đốt hết. Duy chỉ một thứ không đốt đó là gạo, cộng quân sau khi chiếm thị xã, đã phá kho dự trữ lương thực Trung ương, trực thuộc Phủ thủ tướng lấy hết gạo chất lên các xe Mô-lô-tô-va chở về hướng Băng Don, các dụng cụ y khoa, dược phẩm của các Bảo sanh viện, bệnh viện, và các tiệm thuốc Tây, đều bị cộng quân hốt hết chở vô rừng.

 

Nỗi kinh hoàng và tình trạng khủng bố qua những việc lục soát, truy bắt, và thanh lọc xảy ra trên các khu phố, hay Chùa Khải Đoan, Trường Tàu ở đường Y Yút, đường Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trãi, Võ Tánh, Hàm Nghi...   mãi mãi là hình ảnh khủng khiếp, và hoang mang hằn sâu trong tâm trí những người dân thị xã, nhất là các gia đình sĩ quan cùng viên chức chính phủ, binh lính, cảnh sát hay Nghĩa quân và Nhân Dân Tự Vệ.

 

10 giờ 30 sáng ngày 11/3/1975, hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị cộng quân tràn ngập, và thị xã Banmethuot hoàn toàn lọt vào tay cộng quân. Từ đó, cảnh thê lương hoang tàn càng bi thảm hơn, nhưng trong lòng người dân vẫn còn nuôi hy vọng Banmêthuột nhất đinh sẽ được giải cứu, vì 4 Quận và 4 Chi Khu trực thuộc vẫn còn nguyên ven. Các vị Quận trưởng kiêm Chi Khu trưởng đều là những sĩ quan cấp tá dày dạn chiến trường, thêm vào đó, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân, Trung Đoàn 44BB, 45 BB chưa hề chạm trán với địch quân. 

 

Người dân thị xã lúc này lại cố gắng thoát khỏi thị xã để tránh bom đạn khi có lực lượng Tổng trừ bị đến giải tỏa. Hy vọng vẫn còn đây! Cho đến một ngày, ngày định mệnh của Banmêthuột và cũng là ngày mà những người lính anh dũng, thiện chiến của các đơn vị Biệt Động Quân, Sư đoàn 23 BB cũng như các đơn vị trực thuộc Quân đoàn II bị bức tử, đó là ngày người ta nhận được tin Quân đoàn II di tản, và ngày 17 tháng 3 năm 1975, Phòng tuyến Phước An bị chọc thủng, tất cả đã tiêu tan.

 

Hải bắt đầu cuộc chạy trốn sự truy lùng của cộng quân và các tên chỉ điểm, đám công an 30, len lỏi từng khu ngoại ô, Trần Hưng Đạo, Suối Đốc Học, đến Suối Bà Hoàng, lần ra hướng Nhà Thờ Phú Long rồi đi về hướng Quốc lộ 21, mà lòng thầm tiếc nuối bỏ lại tình yêu và kỷ niệm một thời thơ ấu, một khoảng đời oanh liệt nơi vùng đất chôn nhau cắt rún, đã nuôi dưỡng anh từ thủa ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành.

 

Từ đây, Hải thất lạc với Chi và bao nhiêu đồng đội cùng đơn vị. 

 

Và cuối cùng anh bị bắt ở khu rẫy Buôn Kô Tam, bị dẫn bộ qua đường rừng đến Thanh An, một Quận thuộc tỉnh Plei Ku. Đoạn đường rừng mà sau nay mỗi khi nhớ lại, hay lúc kể chuyện tù cải tạo cho bạn bè nghe, anh gọi đó là đoạn đường "thương khó" vì mỗi lần bước chân đi là in nguyên dấu chân máu trên đường, da bàn chân bị lột hết, cộng quân đã bắt cởi giày đeo lên cổ, đi chân đất trên suốt quãng đường dài từ Buôn Kô Tam, Banmethuột đến Thanh An, Pleiku. Ở Thanh An một năm đi hái trà làm cỏ chung với công nhân và dân địa phương,  tù nhân  luôn luôn được cán bộ vỗ về "Đảng và nhà nước không cho các anh về, chỉ vì sợ nhân dân quá thù hận các anh, sợ họ giết các anh để trả thù". Trong khi đó, hằng ngày đi làm chung với dân, anh và các bạn tù luôn tìm thấy cá khô nướng và khoai lang nấu sẵn giấu dưới các cội trà phủ lá "Các bác ở nhà cũng không no đâu, nhưng chia sớt cho các con mà thôi, các con đánh giặc dở quá để bây giờ các bác và các con cùng chịu khổ!”

 

Câu nói làm rơi nước mắt những người tù, nên có những lần quá cảm động, anh và các bạn tù đã không nỡ lấy cá, chỉ lấy khoai mà thôi. Và đó chính là lòng thù hận của nhân dân Miền Nam dành cho ngụy quân, ngụy quyền mà cán bộ trại tù quen nói.

 

Khoảng tháng 9 năm 1976, anh được đưa về trại tù Mê Van, một mật khu của cộng quân nằm về phía Bắc, Tây Bắc Thị xã Banmethuột, cách thị xã khoảng 60 km đường chim bay. Tại đây, anh gặp lại những khuôn mặt thân quen ngày cũ như Đại Úy Nghĩa (Phụng Hoàng), Đại Úy Long (An ninh Quân Đội ), Sơn, Tế (Quân Báo). Một số viên chức Hành Chánh như anh Tăng (Ty Xã Hội), Anh Khôi, Anh Tín, và Chi, người bạn nối khố của anh, Quốc Anh, người bạn học thời Đệ Nhất. 

 

Sáu tháng sau, anh được lệnh chuyển trại cùng với 12 phạm nhân khác (phạm nhân là cách xưng của nhà tù Mê Van). Ngày chuyển trai thật cảm động, đó là giờ cơm trưa, cán bộ võ trang đến từng trại đọc tên những phạm nhân chuyển trại và ra lệnh "Ai có tên trong danh sách này, phải thanh toán nợ nần với bạn bè, ai mắc nợ những phạm nhân được lệnh chuyển trại này cũng phải thanh toán cho họ, sau khi ăn cơm xong, 1 giờ trưa, các anh tập họp trước văn phòng trại". Rồi bạn bè trong trại, người gói cho mấy miếng đường thẻ, nắm thuốc lào, chén gạo nếp… là những thực phẩm rất quí của đời tù. Anh còn nhớ Trị đến thì thầm bên tai anh "Hãy nhớ giữ gìn sức khỏe và can đảm, tất cả đều là thánh ý mà thôi", rồi đút túi cho anh 4 viên đường thẻ, trước khi anh kịp mang ba lô bước ra khỏi trại.

 

Bẵng đi một thời gian rất lâu, anh mất hết tin tức các bạn bè cũ, cho đến ngày được tha, về Sàigòn những người đầu tiên mà anh găp lại đó là Nguyễn Bá Trí (Đốc sự Hành Chánh), Hồ Sĩ Thái (Nông cơ BanmêThuột) tại nhà thờ Chúa Cứu Thế trong buổi chầu chiều thứ 7, sau giờ chầu, 3 anh em rủ nhau đạp xe theo Nguyễn Thông nối dài để đến Lê Văn Duyệt ở Cống Bà Xếp. Từ đây đạp đến chợ Bến Thành, qua Câu Lạc Bộ Học sinh Sinh Viên Nghệ Tĩnh Bình, 370 Lê Văn Duyệt, nơi mà 3 anh em một thời đã làm sinh viên nội trú suốt 4 năm, bây giờ căn nhà xây mặt tiền đã làm Tòa soạn báo Công Giáo Dân Tộc của Linh mục Trương Bá Cần. 

 

Ở đây còn chôn đầy kỷ niệm của đời làm "précepteur" và thầy giáo dạy giờ ở các tư thục. Đời sinh viên quả thật là thơ mộng, Tuy nghèo, nhưng tâm hồn lúc nào cũng thanh thản nhẹ nhàng, đầy phóng khoáng, có những lúc anh em gặp nhau, bàn tán về người đẹp, nhưng giai nhân không phải là học trò của mình mà là hai chị em cô chủ quán "Thạch Chè" nổi tiếng, nằm cùng dãy với Câu Lạc Bộ, cách một con hẻm và 4 căn phố.

 

Nói tới con hẻm này, lại nhớ tới xe đậu đỏ bánh lọt thêm dầu chuối ngon nổi tiếng nhất nhì của Thành Đô một thủa, ai ăn rồi đều muốn được ăn lại. Sài Gòn bây giờ mang nỗi buồn thảm đạm, như xác người còn đó mà hồn phách đã tản lạc nơi đâu, những căn lầu hai bên đường đều phơi đầy quần áo đủ loại đủ màu trên ban công, phố xá buồn thiu, mang nét hoang tàn, xác xơ như những phiên chợ chiều 30 Tết ở phố Quận ngày xưa. Chợ Bến Thành sầm uất và phồn thịnh thủa nào, nay xơ xác còn thua một chợ nhỏ ở các tỉnh lỵ miền núi ngày trước. Quanh chợ toàn là những mặt hàng của Khu Dân Sinh, quần áo cũ, vải miếng, dép da, bata… Đúng là thảm trạng. 

Con đường Huỳnh Thúc Kháng đã thành khu Chợ Trời nổi tiếng, danh vang đến tận miền Tây, bán đủ các mặt hàng, từ áo lót đến áo dài, nhưng toàn là đồ cũ, dân Saigòn hết tiền đem áo quần ra bán, rồi bàn ghế, đồ gia dụng, cho đến đồng hồ, dây chuyền… nghĩa là từ thượng vàng đến hạ cám đều có đủ, chỉ ngặt một nỗi là đồ đã được dân Saigon  xài rồi đem bán lại, mà khách mua dĩ nhiên gia đình cán bộ hoặc cán bộ!

 

Một Chợ Trời nổi tiếng khác là khu chợ Nguyễn Thông, chuyên bán thuốc Tây, bia và rượu ngoại. Chợ Trời có khắp nơi trên đất Saigon, Tân Bình, Chợ Thiếc, Tân Định, Thị Nghè, Bà Chiểu… Ở đâu cũng là quần áo cũ và hàng tiêu dùng.

 

Có những ngày nhàn nhạ, Hải lang thang đến các khu chợ ĐaKao, Bà Chiểu nhìn người mua kẻ bán, để nghe những câu hỏi của khách mua: “Khoai mì này có nở không chị!” “Bo bo này có bị sượng không chị!”

 

Có nhiều ngày, chợ không có khoai mì, không có bo bo, người ta ăn cháo rau muống! Và xếp hàng chờ mua khoai mì sượng của Hợp Tác Xã bán ra, hay bo bo mốc của Cửa Hàng Nhà Nước.

Sàigòn hoa lệ, Hòn Ngọc Viễn Đông, bây giờ là một bãi rác, và bỗng nhiên mùi chợ cá ở đường Trần Quốc Toản ngày nào đã không còn nghe lại nữa!

 

Ngôn ngữ ngoài chợ ở Saigòn bây giờ là "đổng hai cửa sổ, không người lái”, “cái nồi ngồi trên cái cốc”, “Thuốc lá có cán”, “đồ  rởm, báo cáo, đảm bảo…”  nghe rất lạ tai và đôi khi không hiểu đến ngớ ngẩn! Số phận những người đi tù cải tạo về lại thê thảm hơn, chế độ quản lý người tù cải tạo trở về, hết sức tùy tiện, tùy từng phường, từng quận. Có những phường, người tù cải tạo được tha về, được công an phường phát cho một cuốn tập có đóng dấu trên đầu mỗi trang, yêu cầu tù cải tạo phải viết vào đó công việc hằng ngày của mình, đi đâu, làm gì ở đâu, rồi mỗi sáng thứ Hai hằng tuần đem đến trình cho công an phường, và dầu được tha về ở tại nhà mình với vợ con, vợ vẫn phải làm đơn bảo lãnh cho chồng xin tạm trú tại nhà của chính mình, và câu cuối cùng của tờ bảo lãnh tạm trú luôn luôn là "Tuyệt đối chấp hành lệnh của chính quyền địa phương và sẵn sàng đi Kinh Tế Mới khi được chính quyền địa phương bố trí".

 

Những tù cải tạo không thể nào xin được việc làm, vì công an không bao giờ chứng nhận bản sơ yếu lý lịch cho tù, vì họ không có thường trú, nghĩa là không có tên trong tờ Hộ Khẩu của gia đình, ngoại trừ những người tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học, tức là có cử nhân, nhưng cử nhân Văn Khoa, Luật Khoa, nghĩa là các khoa thuộc khoa học Xã hội, lại không được hưởng theo chỉ thị 8 của Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành Ủy ký ban hành lúc bấy giờ.

 

Tháng 8, 1992, Hải theo diện HO qua Mỹ, cuốn phim xưa gác lại trong Hải, nhưng vẫn còn tiếp nối cho những người bất hạnh còn lại trên Việt Nam. Nhìn lại chặng đường lịch sử và những chiến tích lẫy lừng của Quân Lực VNCH, từ Vũng Rô, Chiến khu D... của thời nền Cộng Hòa mới phôi thai,  cho đến Mậu Thân, Dak Tô, Ben Hét, Mùa hè đỏ lửa... rồi Hiệp định Paris 27 tháng Giêng năm 1973, những tài liệu viết về chiến tranh Việt Nam, dân miền Nam càng hiểu rõ lich sử Việt Nam hơn.

 

VNCH nhận được viện trợ của Hoa Kỳ cho đến Hiệp định Paris 27/1/1973 thì viện trợ của Hoa Kỳ đã bắt đầu chấm dứt.

 

– 300 triệu viện trợ cho quốc phòng đã bị Quốc Hội Mỹ từ chối

– Nhiên liệu cắt 50%

– Vũ khí, đạn dược hạn chế tối đa, một khẩu M15, M16 chỉ còn 8 băng đạn, bom đã bị rút hết ngòi nổ. Vào thời điểm đó khi các đơn vị ở chiến trường gặp khó khăn gọi về hậu cứ xin yểm trợ, luôn luôn nhận được công điện trả lời là "HÃY TẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN CƠ  HỮU"  Nghĩa là: Hậu cứ không có gì để yểm trợ! Hãy sử dụng những gì anh có!

 

Đêm ngày 9/3/1975, quân cộng sản tấn chiếm chi khu Đức Lập thuộc tỉnh Quảng Đức, cách thị xã Banmethuột, tỉnh Darlắc 60 km về phía Nam, không quân yểm trợ chỉ có 2 phi vụ là bom, 2 phi vụ còn lại là dùng xăng bột bỏ vào thùng phi 200 lít để thay cho bom.

 

Với tình trạng ấy, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có dũng cảm và thiện chiến đến đâu cũng chỉ chống chọi được từ 6 tháng đến một năm là cạn sạch khí cụ đạn dược. Trong khi đó, quân cộng sản miền Bắc vẫn nhận viện trợ liên tục của cả khối cộng sản Bắc Âu, từ Hungari, Bungari, Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức cho đến Liên Xô và Trung Cộng. Vì thế nên khi cộng sản chiếm được miền Nam, Tổng bí thư đảng cộng sản đã nói, “CHÚNG TA ĐÁNH MIỀN NAM LÀ ĐÁNH CHO LIÊN XÔ VÀ TRUNG QUỐC”.

 

Không hiểu hôm nay có đảng viên cộng sản nào còn nhớ được câu nói này không?

 

Quân lực VNCH đã rất giỏi, đơn thân độc mã chống với cả thế giới cộng sản mấy năm trời! Và cũng đến hôm nay, chúng ta hiểu rõ chính sách của Hoa Kỳ, một chính sách mang tính giai đoạn, ngắn hạn, tùy thuộc hoàn toàn vào từng đời Tổng thống và đảng cầm quyền, cũng như chiến thuật SEARCH AND DESTROY của William C. Westmoreland, hay CLEAR AND HOLD của Creighton W. Abrams, những tư lệnh của đồng minh Hoa Kỳ thời đó.

 

Chỉ thương đất nước mình là một nước nhỏ, chỉ mong những người cầm quyền hôm nay ý thức được chủ nghĩa cộng sản là một ảo vọng và Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ là một khẩu hiệu của chính trị, như dân miền Bắc dạy người miên Nam XHCN = Xạo Hết Chổ  Nói! để thoát khỏi ách của Trung cộng, và ảnh huởng của nước lớn.

 

Vả chăng, giữa kẻ cầm quyền và người bị trị, vĩnh viễn có một khoảng cách, dù là thánh nhân đi nữa thì cá nhân cầm quyền hay đảng cầm quyền vẫn không thể thoát khỏi ma lực quyến rũ của quyền lực.

 

Gần 50 năm trôi qua, nhưng nỗi đau quay quắt chưa hề nguôi, niềm hy vọng đã trở thành mơ ước như bao chuyện thần thoại trong đời, và bao nhiêu đồng đội một thời đã rủ nhau lần lượt ra đi trong ngậm ngùi tức tưởi, mang hờn oan đến chốn tuyền đài.

 

Hải cúi xuống, giấu đi dòng lệ, cố xua đuổi những hình ảnh tang thương ngày ấy và lẩn trốn khúc phim xưa đang cuộn cuộn đi về trong trí óc anh.

 

– Nguyễn Định

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong thế hệ ca nhạc sĩ trẻ của nền âm nhạc Sài Gòn trước 1975, cặp uyên ương Lê Uyên - Phương có một chỗ đứng đặc biệt, độc nhất. Sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phương kéo dài từ đầu thập niên 1970s ở Miền Nam sang đến tận Hoa Kỳ sau 1975, cho đến khi ông mất vào năm 1999. Nhiều ca khúc Lê Uyên Phương cho đến nay vẫn chưa được chính thức phổ biến, phát hành. Để tưởng nhớ 25 năm ngày mất của người nhạc sĩ tài hoa, ca sĩ Lê Uyên sẽ tổ chức đêm nhạc chủ đề “Lê Uyên Phương 25 Năm Cuộc Đời– Tình Yêu – Âm Nhạc” tại Saigon Grand Center thành phố Fountain Valley vào ngày 7 tháng 12 2024.
Cộng đồng người Việt tị nạn ở Mỹ và trên toàn thế giới đang tiến tới một cột mốc quan trọng: 50 năm ly hương kể từ sau biến cố Tháng Tư Đen 1975. Nhiều tác phẩm trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật được thực hiện có liên quan đến sự kiện này. Tại đại hội điện ảnh Viet Film Fest 2024 vừa được tổ chức vào đầu tháng 10, bộ phim đoạt giải Trống Đồng dành cho phim dài xuất sắc nhất là New Wave của nữ đạo diễn Elizabeth Ai. Bộ phim tài liệu này ghi nhận lại một hiện tượng âm nhạc quan trọng của thế hệ người Việt trong thập niên 1980s: dòng nhạc new wave. Thế nhưng bộ phim không chỉ dừng lại ở khía cạnh âm nhạc, mà đào sâu hơn vào mâu thuẫn trong những gia đình Việt Nam trong những ngày đầu định cư ở Mỹ.
Thời gian là thứ được người ta ví như vó câu, vụt một cái là biến mất, chẳng bao giờ trở lại, có muốn níu cũng vô ích. Họa sĩ Phan Nguyên không dại chi mà níu, anh ghi lại rồi mặc cho nó sổng ra chạy đi. Tôi muốn nói tới anh, một người đã âm thầm lưu giữ những mảnh vụn thời gian của giới văn học nghệ thuật bằng cách ghi lại trong “Mượn Dấu Thời Gian”, tên tiếng Pháp là “Emprunt Empreinte”. Anh tâm tình: “Là một “sân chơi” rất riêng của Phan Nguyên từ khá lâu với giới văn nghệ sĩ, thân hữu gần xa, trong và ngoài nước, không phân biệt tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, chính kiến gì cả, miễn là họ đã có những tác phẩm hay, đẹp để lại cho đời và cho thế hệ mai sau, miễn là họ đã đóng góp cái phần tinh túy nhất của con người, của chính mình cho văn học nghệ thuật Việt Nam hay thế giới nói chung”.
Để ta cùng vượt thời gian, không gian. Một trăm năm nữa, nếu có cơ duyên hội ngộ, vẫn chuyện trò tự nhiên, vui vẻ, như từng gặp gỡ tự bao giờ. Vui vẻ, vì cả đời chỉ thích viết văn, làm thơ. Viết văn, trừ trường hợp bất khả kháng, tôi vẫn cố gắng viết vui, cho bạn đọc đỡ nản. Nay tự nhiên lâm cảnh ngặt nghèo, phải đem chuyện vật lý, khoa học, Vũ trụ càn khôn, vừa nhàm chán vừa khó hiểu, ra trình làng… nên càng phải cố viết vui, viết giễu. Để may ra vớt vát được phần nào.
Trong lãnh vực sáng tác từ ngôn ngữ cho đến tác phẩm trực quan, các chuyên gia và các tác giả đang quan tâm đến khả năng sáng tạo của AI, sự hiện diện và tác dụng của trí thông minh nhân tạo sẽ làm thay đổi quan niệm và phương pháp, kỹ thuật và nghệ thuật truyền thống. Các chuyên gia về máy học dự đoán rằng AI sẽ "viết" một cuốn sách bán chạy nhất của tờ New York Times vào năm 2049 (Grace và cộng sự, 2018; Hall, 2018). Lãnh vực sáng tạo tính toán đã được xác định là biên giới tiếp theo trong nghiên cứu AI (Colton & Wiggins, 2012) và có ý nghĩa hấp dẫn đối với ngành công nghiệp văn học. Các thuật toán có khả năng tạo ra ngôn ngữ tự nhiên (Gatt & Krahmer, 2018) Các nghiên cứu về sáng tạo tính toán tập trung vào việc xác định các yếu tố cốt lõi của các hình thức sáng tạo (như văn học, nghệ thuật thị giác và âm nhạc) theo góc nhìn thuật toán, với mục đích sao chép hoặc kích thích sự sáng tạo của con người (Turner, 2014; Besold và cộng sự, 2015; Veale và cộng sự, 2019).
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.