Hôm nay,  

Banmethuột -- Khúc Phim Buồn

09/03/202219:13:00(Xem: 2817)

Ban_Don


 

(Viết dể nhớ Banmethuột, ngày 10 tháng 3, 1975)

 

Hằng năm cứ mỗi lần đến ngày 10 tháng 3, Hải không giấu được nỗi cảm xúc của mình, có những khi cảm xúc kéo dài đến hàng tuần, và những lần như vậy, anh cơ hồ đi lại những khu phố thân quen của Banmethuột một thời thơ mộng và đáng yêu. 

 

Thoảng chốc mà đã mấy mươi năm, tóc anh đã điểm bạc, bạn bè trang lứa biết bao nhiêu kẻ đã ra đi, nhưng trong lòng anh, khi nhớ về quê hương cũ, vẫn nghe lòng sục sôi thời tuổi trẻ, trong huyết quản anh, dòng máu luân lưu cuồn cuộn như thủa trai tráng một thời, và bao mến yêu nơi quê hương ấu thơ đó hiện ra mồn một trong tâm trí anh.

 

– Này, ông đã nghe tin gì chưa vậy?

– Thì tụi nó đang di chuyển về Banmethuot cấp Sư đoàn và là tụi chính quy, có phải ông muốn nói về tin này không?

 

– Ừ phải rồi, bên Cảnh sát cũng đã được Chủ nhân của 7 chiếc xe cần câu tới khai báo là xe của họ đi làm rừng đã bị tụi nó tịch thu ở khu vực Đức Lập vùng Tây Bắc, và khu Băng Đon cũng bị 3 chiếc.

 

– Không Trợ đã chụp được không ảnh hoạt động của tụi nó, đã gởi công điện cho Quân Đoàn và các đơn vị liên hệ rồi.

 

– Cũng mong là không có gì.

 

– Dĩ nhiên là không có gì, vì nơi đây là quê hương của tôi mà!  Hải vừa nói vừa cười.

 

Đó là khoảng thời gian cuối tháng 2 năm 1975, anh và Chi nói chuyện với nhau 3 tuần trước ngày 9 tháng 3 năm 1975, ngày Việt Cộng tràn ngập Chi Khu Đức Lập thuộc Tỉnh Quảng Đức, và đêm hôm ấy, lúc 2 giờ 20 sáng ngày thứ 2, 10/3/1975, cộng quân pháo kích thị xã Banmethuot, mở đầu cho trận tấn công vào thị xã này.

 

Sáng ngày 10 tháng 3, lúc 6 giờ 30 sáng, tại Ngã Sáu, trước nhà thờ Chính Tòa Banmethuot, khi xe của Ty Thông Tin còn loan đi lời kêu gọi đồng bào “ai ở yên nhà nấy, tình hình thị xã vẫn còn yên tĩnh”, thì bộ binh của cộng quân đã tràn chiếm góc Tây Bắc của Phi Trường L19 và xâm nhập khu vườn cà phê cuối đường  Phan Chu Trinh, đồng thời các chốt điểm trọng yếu của Cảnh Sát ở mặt Nam thị xã đã phải xin lệnh rút để tránh bị tiêu diệt.

 

Tình hình thị xã từ đường Võ Tánh, Phan Chu Trinh, chay. xuống Nguyễn Tri Phương kéo dài cho đến Suối Đốc Học và Khu Buôn A Lê A, A Lê B vẫn còn trong sự kiểm soát, nhưng rải rác một vài nơi như khu vực Trần Hưng Đạo, (Ty Ngân Khố đi vào) và khu Kim Mai đã có những gia đình bồng bế con, gồng gánh chạy vào trung tâm thị xã, đến nương náu trên đường Lý Thường Kiệt, khoảng giữa  Ama Trang Long, và Quang Trung, chen chúc nhau trong tiệm bi da Thanh Sơn.

7 giờ 30, sáng ngày Thứ Hai, 10 tháng 3, 1975, bộ binh của cộng quân đã từ khu vườn cà phê sau lưng Tòa Giám Mục, theo đường Phan Chu Trinh xậm nhập thị xã và chiếm khuôn viên Nhà thờ Chính Tòa, ở Ngã Sáu. Rồi tất cả như một khúc phim lần lượt hiện ra trông trí Hải. Khu nhà anh ở bị trúng đạn bốc cháy, nhà hàng Hoàng Vinh, khói lửa cuộn vòng dâng cao, thành phố náo loạn trong chốc lát, từng nhóm người tụ tập từng góc phố, từ  đường Y Yút, Khu Trường Tàu, Chùa Khải Đoan, cho tới  Khu Hoàng Diệu - Lê Văn Duyệt, Phạm Phú Quốc - Hàm Nghi…

 

Một số dân cư từ Buôn A Lê A, khu Suối Đốc Học lại gồng gánh, bồng bế nhau đổ về Trung tâm thị xã và ẩn náu trong khu chợ, sau nhà hàng Vĩnh Thuận. Cho đến lúc này, người dân thị xã vẫn chưa tin Banmethuột sẽ mất, vì hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh còn đó, Tiểu Khu còn đó, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát còn đó, và nhất là tin truyền miệng cho biết Biệt Động Quân đã vào Trường Trung Học Tổng Hợp, đang di chuyển về Ngã Sáu thị xã, và Khu Tư Dinh Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB.

 

Nhưng rồi người dân thị xã đã tuyệt vọng khi hay tin đơn vị Biệt Động Quân xâm nhập thị xã chỉ để đưa gia đình tướng Tường, Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB ra khỏi thị xã mà thôi.

 

– 11giờ 20, sáng ngày 10 tháng 3, 1975, 1 chiếc T54 của cộng quân  bị bắn hạ trước cổng Tiểu Khu, đường Thống Nhất.

 

– 1 giờ chiều ngày 10 tháng 3, 1975, Trung tâm Hành Quân Tiểu Khu bị pháo sập, mọi liên lạc bi gián đoạn.

 

– 2 giờ 20 chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, Tiểu Khu di tản ra Trung tâm huấn luyên của Trung Đoàn 45 BB, cây số 5.

 

– 3 giờ 40 chiều cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia di tản khỏi thí xã, và Banmêthuột lọt vào tay quân cộng sản.

 

Tất cả những sự kiện ấy, và hình ảnh tan hoang của phố thị hay Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia Xã Lạc Giao, Tòa Hành Chánh, các khu công sở…  mãi mãi như vết tích hằn sâu trong tâm trí Hải.

 

Những cuộc trả thù cá nhân, những người làm chỉ điểm viên cho cộng quân lục soát tư gia của Sĩ quan, viên chức chính phủ, những hành động trả tư thù man rợ đến nay đã mấy mưoi năm nhưng vẫn như mới xảy ra đâu đây, ở hôm qua hay tuần trước trong trí óc anh! 

 

Bao nhiêu sách vở, giấy tờ, văn khế, văn bằng, đều đem đốt hết hay bị đốt sạch, nhất là các sách ngoại ngữ, Anh Văn, Pháp Văn, Tự điển Anh Pháp hay Hán tự đều đốt hết. Duy chỉ một thứ không đốt đó là gạo, cộng quân sau khi chiếm thị xã, đã phá kho dự trữ lương thực Trung ương, trực thuộc Phủ thủ tướng lấy hết gạo chất lên các xe Mô-lô-tô-va chở về hướng Băng Don, các dụng cụ y khoa, dược phẩm của các Bảo sanh viện, bệnh viện, và các tiệm thuốc Tây, đều bị cộng quân hốt hết chở vô rừng.

 

Nỗi kinh hoàng và tình trạng khủng bố qua những việc lục soát, truy bắt, và thanh lọc xảy ra trên các khu phố, hay Chùa Khải Đoan, Trường Tàu ở đường Y Yút, đường Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trãi, Võ Tánh, Hàm Nghi...   mãi mãi là hình ảnh khủng khiếp, và hoang mang hằn sâu trong tâm trí những người dân thị xã, nhất là các gia đình sĩ quan cùng viên chức chính phủ, binh lính, cảnh sát hay Nghĩa quân và Nhân Dân Tự Vệ.

 

10 giờ 30 sáng ngày 11/3/1975, hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị cộng quân tràn ngập, và thị xã Banmethuot hoàn toàn lọt vào tay cộng quân. Từ đó, cảnh thê lương hoang tàn càng bi thảm hơn, nhưng trong lòng người dân vẫn còn nuôi hy vọng Banmêthuột nhất đinh sẽ được giải cứu, vì 4 Quận và 4 Chi Khu trực thuộc vẫn còn nguyên ven. Các vị Quận trưởng kiêm Chi Khu trưởng đều là những sĩ quan cấp tá dày dạn chiến trường, thêm vào đó, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân, Trung Đoàn 44BB, 45 BB chưa hề chạm trán với địch quân. 

 

Người dân thị xã lúc này lại cố gắng thoát khỏi thị xã để tránh bom đạn khi có lực lượng Tổng trừ bị đến giải tỏa. Hy vọng vẫn còn đây! Cho đến một ngày, ngày định mệnh của Banmêthuột và cũng là ngày mà những người lính anh dũng, thiện chiến của các đơn vị Biệt Động Quân, Sư đoàn 23 BB cũng như các đơn vị trực thuộc Quân đoàn II bị bức tử, đó là ngày người ta nhận được tin Quân đoàn II di tản, và ngày 17 tháng 3 năm 1975, Phòng tuyến Phước An bị chọc thủng, tất cả đã tiêu tan.

 

Hải bắt đầu cuộc chạy trốn sự truy lùng của cộng quân và các tên chỉ điểm, đám công an 30, len lỏi từng khu ngoại ô, Trần Hưng Đạo, Suối Đốc Học, đến Suối Bà Hoàng, lần ra hướng Nhà Thờ Phú Long rồi đi về hướng Quốc lộ 21, mà lòng thầm tiếc nuối bỏ lại tình yêu và kỷ niệm một thời thơ ấu, một khoảng đời oanh liệt nơi vùng đất chôn nhau cắt rún, đã nuôi dưỡng anh từ thủa ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành.

 

Từ đây, Hải thất lạc với Chi và bao nhiêu đồng đội cùng đơn vị. 

 

Và cuối cùng anh bị bắt ở khu rẫy Buôn Kô Tam, bị dẫn bộ qua đường rừng đến Thanh An, một Quận thuộc tỉnh Plei Ku. Đoạn đường rừng mà sau nay mỗi khi nhớ lại, hay lúc kể chuyện tù cải tạo cho bạn bè nghe, anh gọi đó là đoạn đường "thương khó" vì mỗi lần bước chân đi là in nguyên dấu chân máu trên đường, da bàn chân bị lột hết, cộng quân đã bắt cởi giày đeo lên cổ, đi chân đất trên suốt quãng đường dài từ Buôn Kô Tam, Banmethuột đến Thanh An, Pleiku. Ở Thanh An một năm đi hái trà làm cỏ chung với công nhân và dân địa phương,  tù nhân  luôn luôn được cán bộ vỗ về "Đảng và nhà nước không cho các anh về, chỉ vì sợ nhân dân quá thù hận các anh, sợ họ giết các anh để trả thù". Trong khi đó, hằng ngày đi làm chung với dân, anh và các bạn tù luôn tìm thấy cá khô nướng và khoai lang nấu sẵn giấu dưới các cội trà phủ lá "Các bác ở nhà cũng không no đâu, nhưng chia sớt cho các con mà thôi, các con đánh giặc dở quá để bây giờ các bác và các con cùng chịu khổ!”

 

Câu nói làm rơi nước mắt những người tù, nên có những lần quá cảm động, anh và các bạn tù đã không nỡ lấy cá, chỉ lấy khoai mà thôi. Và đó chính là lòng thù hận của nhân dân Miền Nam dành cho ngụy quân, ngụy quyền mà cán bộ trại tù quen nói.

 

Khoảng tháng 9 năm 1976, anh được đưa về trại tù Mê Van, một mật khu của cộng quân nằm về phía Bắc, Tây Bắc Thị xã Banmethuột, cách thị xã khoảng 60 km đường chim bay. Tại đây, anh gặp lại những khuôn mặt thân quen ngày cũ như Đại Úy Nghĩa (Phụng Hoàng), Đại Úy Long (An ninh Quân Đội ), Sơn, Tế (Quân Báo). Một số viên chức Hành Chánh như anh Tăng (Ty Xã Hội), Anh Khôi, Anh Tín, và Chi, người bạn nối khố của anh, Quốc Anh, người bạn học thời Đệ Nhất. 

 

Sáu tháng sau, anh được lệnh chuyển trại cùng với 12 phạm nhân khác (phạm nhân là cách xưng của nhà tù Mê Van). Ngày chuyển trai thật cảm động, đó là giờ cơm trưa, cán bộ võ trang đến từng trại đọc tên những phạm nhân chuyển trại và ra lệnh "Ai có tên trong danh sách này, phải thanh toán nợ nần với bạn bè, ai mắc nợ những phạm nhân được lệnh chuyển trại này cũng phải thanh toán cho họ, sau khi ăn cơm xong, 1 giờ trưa, các anh tập họp trước văn phòng trại". Rồi bạn bè trong trại, người gói cho mấy miếng đường thẻ, nắm thuốc lào, chén gạo nếp… là những thực phẩm rất quí của đời tù. Anh còn nhớ Trị đến thì thầm bên tai anh "Hãy nhớ giữ gìn sức khỏe và can đảm, tất cả đều là thánh ý mà thôi", rồi đút túi cho anh 4 viên đường thẻ, trước khi anh kịp mang ba lô bước ra khỏi trại.

 

Bẵng đi một thời gian rất lâu, anh mất hết tin tức các bạn bè cũ, cho đến ngày được tha, về Sàigòn những người đầu tiên mà anh găp lại đó là Nguyễn Bá Trí (Đốc sự Hành Chánh), Hồ Sĩ Thái (Nông cơ BanmêThuột) tại nhà thờ Chúa Cứu Thế trong buổi chầu chiều thứ 7, sau giờ chầu, 3 anh em rủ nhau đạp xe theo Nguyễn Thông nối dài để đến Lê Văn Duyệt ở Cống Bà Xếp. Từ đây đạp đến chợ Bến Thành, qua Câu Lạc Bộ Học sinh Sinh Viên Nghệ Tĩnh Bình, 370 Lê Văn Duyệt, nơi mà 3 anh em một thời đã làm sinh viên nội trú suốt 4 năm, bây giờ căn nhà xây mặt tiền đã làm Tòa soạn báo Công Giáo Dân Tộc của Linh mục Trương Bá Cần. 

 

Ở đây còn chôn đầy kỷ niệm của đời làm "précepteur" và thầy giáo dạy giờ ở các tư thục. Đời sinh viên quả thật là thơ mộng, Tuy nghèo, nhưng tâm hồn lúc nào cũng thanh thản nhẹ nhàng, đầy phóng khoáng, có những lúc anh em gặp nhau, bàn tán về người đẹp, nhưng giai nhân không phải là học trò của mình mà là hai chị em cô chủ quán "Thạch Chè" nổi tiếng, nằm cùng dãy với Câu Lạc Bộ, cách một con hẻm và 4 căn phố.

 

Nói tới con hẻm này, lại nhớ tới xe đậu đỏ bánh lọt thêm dầu chuối ngon nổi tiếng nhất nhì của Thành Đô một thủa, ai ăn rồi đều muốn được ăn lại. Sài Gòn bây giờ mang nỗi buồn thảm đạm, như xác người còn đó mà hồn phách đã tản lạc nơi đâu, những căn lầu hai bên đường đều phơi đầy quần áo đủ loại đủ màu trên ban công, phố xá buồn thiu, mang nét hoang tàn, xác xơ như những phiên chợ chiều 30 Tết ở phố Quận ngày xưa. Chợ Bến Thành sầm uất và phồn thịnh thủa nào, nay xơ xác còn thua một chợ nhỏ ở các tỉnh lỵ miền núi ngày trước. Quanh chợ toàn là những mặt hàng của Khu Dân Sinh, quần áo cũ, vải miếng, dép da, bata… Đúng là thảm trạng. 

Con đường Huỳnh Thúc Kháng đã thành khu Chợ Trời nổi tiếng, danh vang đến tận miền Tây, bán đủ các mặt hàng, từ áo lót đến áo dài, nhưng toàn là đồ cũ, dân Saigòn hết tiền đem áo quần ra bán, rồi bàn ghế, đồ gia dụng, cho đến đồng hồ, dây chuyền… nghĩa là từ thượng vàng đến hạ cám đều có đủ, chỉ ngặt một nỗi là đồ đã được dân Saigon  xài rồi đem bán lại, mà khách mua dĩ nhiên gia đình cán bộ hoặc cán bộ!

 

Một Chợ Trời nổi tiếng khác là khu chợ Nguyễn Thông, chuyên bán thuốc Tây, bia và rượu ngoại. Chợ Trời có khắp nơi trên đất Saigon, Tân Bình, Chợ Thiếc, Tân Định, Thị Nghè, Bà Chiểu… Ở đâu cũng là quần áo cũ và hàng tiêu dùng.

 

Có những ngày nhàn nhạ, Hải lang thang đến các khu chợ ĐaKao, Bà Chiểu nhìn người mua kẻ bán, để nghe những câu hỏi của khách mua: “Khoai mì này có nở không chị!” “Bo bo này có bị sượng không chị!”

 

Có nhiều ngày, chợ không có khoai mì, không có bo bo, người ta ăn cháo rau muống! Và xếp hàng chờ mua khoai mì sượng của Hợp Tác Xã bán ra, hay bo bo mốc của Cửa Hàng Nhà Nước.

Sàigòn hoa lệ, Hòn Ngọc Viễn Đông, bây giờ là một bãi rác, và bỗng nhiên mùi chợ cá ở đường Trần Quốc Toản ngày nào đã không còn nghe lại nữa!

 

Ngôn ngữ ngoài chợ ở Saigòn bây giờ là "đổng hai cửa sổ, không người lái”, “cái nồi ngồi trên cái cốc”, “Thuốc lá có cán”, “đồ  rởm, báo cáo, đảm bảo…”  nghe rất lạ tai và đôi khi không hiểu đến ngớ ngẩn! Số phận những người đi tù cải tạo về lại thê thảm hơn, chế độ quản lý người tù cải tạo trở về, hết sức tùy tiện, tùy từng phường, từng quận. Có những phường, người tù cải tạo được tha về, được công an phường phát cho một cuốn tập có đóng dấu trên đầu mỗi trang, yêu cầu tù cải tạo phải viết vào đó công việc hằng ngày của mình, đi đâu, làm gì ở đâu, rồi mỗi sáng thứ Hai hằng tuần đem đến trình cho công an phường, và dầu được tha về ở tại nhà mình với vợ con, vợ vẫn phải làm đơn bảo lãnh cho chồng xin tạm trú tại nhà của chính mình, và câu cuối cùng của tờ bảo lãnh tạm trú luôn luôn là "Tuyệt đối chấp hành lệnh của chính quyền địa phương và sẵn sàng đi Kinh Tế Mới khi được chính quyền địa phương bố trí".

 

Những tù cải tạo không thể nào xin được việc làm, vì công an không bao giờ chứng nhận bản sơ yếu lý lịch cho tù, vì họ không có thường trú, nghĩa là không có tên trong tờ Hộ Khẩu của gia đình, ngoại trừ những người tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học, tức là có cử nhân, nhưng cử nhân Văn Khoa, Luật Khoa, nghĩa là các khoa thuộc khoa học Xã hội, lại không được hưởng theo chỉ thị 8 của Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành Ủy ký ban hành lúc bấy giờ.

 

Tháng 8, 1992, Hải theo diện HO qua Mỹ, cuốn phim xưa gác lại trong Hải, nhưng vẫn còn tiếp nối cho những người bất hạnh còn lại trên Việt Nam. Nhìn lại chặng đường lịch sử và những chiến tích lẫy lừng của Quân Lực VNCH, từ Vũng Rô, Chiến khu D... của thời nền Cộng Hòa mới phôi thai,  cho đến Mậu Thân, Dak Tô, Ben Hét, Mùa hè đỏ lửa... rồi Hiệp định Paris 27 tháng Giêng năm 1973, những tài liệu viết về chiến tranh Việt Nam, dân miền Nam càng hiểu rõ lich sử Việt Nam hơn.

 

VNCH nhận được viện trợ của Hoa Kỳ cho đến Hiệp định Paris 27/1/1973 thì viện trợ của Hoa Kỳ đã bắt đầu chấm dứt.

 

– 300 triệu viện trợ cho quốc phòng đã bị Quốc Hội Mỹ từ chối

– Nhiên liệu cắt 50%

– Vũ khí, đạn dược hạn chế tối đa, một khẩu M15, M16 chỉ còn 8 băng đạn, bom đã bị rút hết ngòi nổ. Vào thời điểm đó khi các đơn vị ở chiến trường gặp khó khăn gọi về hậu cứ xin yểm trợ, luôn luôn nhận được công điện trả lời là "HÃY TẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN CƠ  HỮU"  Nghĩa là: Hậu cứ không có gì để yểm trợ! Hãy sử dụng những gì anh có!

 

Đêm ngày 9/3/1975, quân cộng sản tấn chiếm chi khu Đức Lập thuộc tỉnh Quảng Đức, cách thị xã Banmethuột, tỉnh Darlắc 60 km về phía Nam, không quân yểm trợ chỉ có 2 phi vụ là bom, 2 phi vụ còn lại là dùng xăng bột bỏ vào thùng phi 200 lít để thay cho bom.

 

Với tình trạng ấy, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có dũng cảm và thiện chiến đến đâu cũng chỉ chống chọi được từ 6 tháng đến một năm là cạn sạch khí cụ đạn dược. Trong khi đó, quân cộng sản miền Bắc vẫn nhận viện trợ liên tục của cả khối cộng sản Bắc Âu, từ Hungari, Bungari, Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức cho đến Liên Xô và Trung Cộng. Vì thế nên khi cộng sản chiếm được miền Nam, Tổng bí thư đảng cộng sản đã nói, “CHÚNG TA ĐÁNH MIỀN NAM LÀ ĐÁNH CHO LIÊN XÔ VÀ TRUNG QUỐC”.

 

Không hiểu hôm nay có đảng viên cộng sản nào còn nhớ được câu nói này không?

 

Quân lực VNCH đã rất giỏi, đơn thân độc mã chống với cả thế giới cộng sản mấy năm trời! Và cũng đến hôm nay, chúng ta hiểu rõ chính sách của Hoa Kỳ, một chính sách mang tính giai đoạn, ngắn hạn, tùy thuộc hoàn toàn vào từng đời Tổng thống và đảng cầm quyền, cũng như chiến thuật SEARCH AND DESTROY của William C. Westmoreland, hay CLEAR AND HOLD của Creighton W. Abrams, những tư lệnh của đồng minh Hoa Kỳ thời đó.

 

Chỉ thương đất nước mình là một nước nhỏ, chỉ mong những người cầm quyền hôm nay ý thức được chủ nghĩa cộng sản là một ảo vọng và Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ là một khẩu hiệu của chính trị, như dân miền Bắc dạy người miên Nam XHCN = Xạo Hết Chổ  Nói! để thoát khỏi ách của Trung cộng, và ảnh huởng của nước lớn.

 

Vả chăng, giữa kẻ cầm quyền và người bị trị, vĩnh viễn có một khoảng cách, dù là thánh nhân đi nữa thì cá nhân cầm quyền hay đảng cầm quyền vẫn không thể thoát khỏi ma lực quyến rũ của quyền lực.

 

Gần 50 năm trôi qua, nhưng nỗi đau quay quắt chưa hề nguôi, niềm hy vọng đã trở thành mơ ước như bao chuyện thần thoại trong đời, và bao nhiêu đồng đội một thời đã rủ nhau lần lượt ra đi trong ngậm ngùi tức tưởi, mang hờn oan đến chốn tuyền đài.

 

Hải cúi xuống, giấu đi dòng lệ, cố xua đuổi những hình ảnh tang thương ngày ấy và lẩn trốn khúc phim xưa đang cuộn cuộn đi về trong trí óc anh.

 

– Nguyễn Định

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.