Hôm nay,  

Cuộc chiến quỷ ám

11/03/202200:00:00(Xem: 10403)
Vladimir_Putin_with_Aleksandr_Solzhenitsyn-1
 
Trong câu chuyện vô tận về mối quan hệ phức tạp giữa Nga và phương Tây, các nhà văn Nga ngoài vai trò đồng tác giả còn là những nhân vật tiêu biểu. Sa hoàng, Sô-viết, hậu Sô-viết, Putin hay hậu Putin, thời nào chiến tuyến cũng và cũng sẽ hằn sâu giữa giới trọng Nga (russophile) hay trọng Slav (slavophile) và giới thân phương Tây.
 
Biểu tượng quyến rũ nhất của khuynh hướng thân phương Tây cho đến nay vẫn là Ivan Turgenev: Tài năng, danh tiếng, quảng giao, học thức, thành thạo sáu ngoại ngữ, chưa kể giàu sang quý tộc và một ngoại hình nổi bật với chiếc mũi hoàn hảo trên gương mặt khả ái và chiều cao gần hai mét. Đối trọng của ông về mọi phương diện là Dostoyevsky, xuất thân trong khốn khó, vóc dáng khắc khổ, râu thưa, tóc mỏng, da thiếu nắng, má hóp, mắt nhìn bất an, thần thái bồn chồn và thường xuyên chạy nợ. Hành trình của Dos là từ cực tả đến bảo thủ và thậm chí cực hữu, của Turgenev là từ hư vô đến cấp tiến rồi phóng khoáng ôn hòa. Dos thậm mộ đạo, Turgenev ít nhiều vô thần. Dos táo tợn cực đoan, Turgenev khoan dung điềm tĩnh. Dos cục cằn đầy kịch tính, Turgenev lịch lãm nhẹ nhàng. Dos cường độ, Turgenev sâu lắng. Dos khinh bỉ phong cách, bất chấp kỹ thuật, coi ngôn ngữ chỉ là phương tiện và nếu đang cháy túi thì viết ào ào, miễn bán được bản thảo. Turgenev kỹ lưỡng từng câu chữ, khổ sở mãi về một chiếc bàn tròn ở câu trước bỗng có hình bầu dục ở câu sau trong một tác phẩm của Dos. Dos sục xuống tầng hầm của tâm hồn Nga, tìm ra đầu dây cháy chậm của những quả bom người – những thân phận bị đọa đày và châm ngòi nổ. Turgenev mở cánh cửa sổ Nga ra thế giới, phối hiện thực với trữ tình và cho nét u buồn đặc trưng của Nga một vẻ bi quan hiện đại. Song xung đột bất hủ giữa hai vì tinh tú thuộc hàng rực rỡ nhất trên bầu trời văn chương Nga này đến từ câu hỏi "Con đường nào cho nước Nga?", vấn đề thiêu đốt và chia rẽ giới tinh hoa Nga chậm nhất từ giữa thế kỷ 19.
 
Turgenev
Ivan Turgenev

Trong tác phẩm Khói (1867), Turgenev để nhân vật Potugin của mình phát biểu: "Người Anh gặp nhau thì thảo luận về thuế trước bạ hoặc cáp điện ngầm dưới biển, người Đức bàn về Schleswig-Holstein và tiến trình thống nhất nước Đức, người Pháp không thể không đề cập chuyện tình ái, còn người Nga thì lập tức tranh cãi về 'Vai trò và tương lai của nước Nga'. Họ gặm, họ mút, họ nhai cái vấn đề bất hạnh này như trẻ con ăn cao su – và luôn dẫn đến cùng một kết quả." Song Dostoyevsky thì khác, ông đã trả lời câu hỏi đó bằng hai đáp án trái ngược.

Dostoevsky
Dostoyevsky
 
Chàng thanh niên Dos bị bắt, kết án tử hình, ân xá vào phút chót trên pháp trường và lưu đày ở Siberia. Tội của ông là đã đọc bức thư nổi tiếng của Belinsky gửi Gogol trong một buổi họp mặt của Nhóm Petrashevsky, gồm các trí thức trẻ chống đối chế độ Sa hoàng. Belinsky, nhà phê bình văn học sáng chói những năm bản lề ấy thất vọng sâu sắc về bước ngoặt bảo thủ của Gogol sau thành công của Những linh hồn chết mà ông từng nhiệt thành ngưỡng mộ. Toa thuốc mà Gogol kê cho con bệnh là nước Nga, với những thảo dược Nga truyền thống như thần bí, khổ hạnh và sùng tín, theo Belinsky là chẳng những vô tác dụng mà độc hại, bởi nước Nga cần được điều trị bằng liệu pháp Âu hóa, bằng văn minh, khai sáng và nhân văn. "Nước Nga không cần những bài giảng đạo (nó đã nghe quá đủ!), không cần những lời cầu nguyện (nó đã tụng quá nhàm!), mà cần sự đánh động ý thức của người dân về phẩm giá con người bị chôn vùi trong rác rưởi và ô uế suốt nhiều thế kỷ - nước Nga cần và phải áp dụng thật nghiêm khắc những thứ quyền và luật phù hợp với lẽ công bằng và lý trí lành mạnh chứ không phải phù hợp với giáo lý nhà thờ. Nhưng tiếc tay, nước Nga chỉ trình ra bộ mặt ghê tởm của một quốc gia không có đảm bảo nào cho cá nhân, danh dự và sở hữu của con người, một trật tự cảnh sát cũng không có nổi, chỉ thuần túy là một nhà nước trong tay đám sai nha trộm cắp và cướp bóc!".
 
Mươi năm sau, qua những khổ sai, quân dịch, bệnh tật, túng quẫn, chờ đợi một cú huých cho sự nghiệp, Dos đoạn tuyệt với các lý tưởng cực tả thời trẻ để tốt nghiệp bước ngoặt bảo thủ của số phận mình, có phần ít thần bí hơn Gogol, nhưng cũng triệt để quay lưng với các trào lưu khai sáng, cải cách và hiện đại hóa xã hội, chỉ còn cố thủ ở những "giá trị Nga" ăn sâu trong đời sống chất phác, tâm hồn trong sáng và đức chịu đựng vô tận của nông dân Nga, kết tinh trong Giáo hội Chính thống Nga mà ông giao phó sứ mệnh cứu rỗi không chỉ dân tộc mà toàn nhân loại. Dos nhiều lần thăm thú các kinh thành châu Âu, lần cuối hơn bốn năm lang thang trốn nợ, sống ở phương Tây mà như chưa bao giờ rời khỏi nước Nga, không ngoại ngữ, không giao lưu, không hội nhập, không hiếm khi thua trắng ở các sòng bạc và chỉ sống bằng nước trà. Cảm tình ban đầu của ông với phương Tây chuyển dần thành ác cảm, rồi ác cảm trở thành nỗi ghê tởm để củng cố niềm tin về con đường riêng của nước Nga, luận thuyết về đặc cách Nga, một kiểu Russian Exceptionalism mà sau này các nhà lập thuyết của Chủ nghĩa Putin, từ Aleksandr Solzhenitsyn, Aleksandr Dugin đến Vladislav Surkov, sử dụng như một nền tảng nhận thức. Phương Tây trong quan niệm ngày càng bảo thủ của Dos là hiện thân của chủ nghĩa vật chất suy đồi hời hợt, của sùng bái tiến bộ mù quáng, của tự do vô luân và vô đạo. Nước Mỹ xa xôi mà ông không thực sự tiếp cận cũng trở thành đối tượng căm ghét, chưa kể thái độ bài Do Thái, bài Ba Lan và bài Thổ không giấu diếm – để bài Do Thái giáo, Cơ-đốc giáo và Hồi giáo, ba tôn giáo lớn mà ông phỉ nhổ vì kình địch với Chính thống giáo Nga.   
 
Đối tượng căm ghét tất yếu của ông cũng là Turgenev, người đồng nghiệp lẫy lừng có tất cả những gì Dos không sở hữu và hiện thân của tất cả những gì Dos dị ứng. Họ chia tay nhau không đội trời chung sau lần Dos, cháy túi như thường lệ, đến biệt thự của Turgenev ở Baden-Baden vay tiền đánh bạc và giận dữ vì chỉ mượn được một số tiền quá nhỏ. Chín năm sau ông mới trả khoản nợ ấy, nhưng trong Lũ người quỷ ám, tác phẩm lớn cuối cùng của mình, đã kịp dựng một chân dung Turgenev kệch cỡm qua nhân vật Karmazinov, một nhà văn ăn phải bả phương Tây nay đã hết thời, đạo đức giả và mù tịt về những biến động chính trị xã hội tại Nga. Song Turgenev vẫn rơi nước mắt ôm hôn kẻ thù của mình sau những lời đấu dịu đôi chút với phương Tây của Dos trong diễn văn khánh thành tượng đài Pushkin ở Moskva, bởi ngoài Pushkin, ông là "thiên tài mực thước" duy nhất của một nước Nga đầy những vụ tự thiêu và các thái cực hoang dã như nhận định của Dmitry Merezhkovsky. Vài tháng sau Dostoyevsky qua đời.
 
Tôi cũng đã say sưa đọc những tiểu thuyết đầy nhân vật lạ lùng, tình tiết gay cấn và giáo huấn mạnh mẽ của Dos đúng như lời Joseph Conrad, rằng ở chốn hội chợ văn chương, đám đông chỉ đổ xô đi xem một con chim sơn ca hai mỏ hay một gã quái thai khổng lồ, cổ chằng dây nịt ngựa, cười toe toét với khán giả. Chậm nhất, với Nabokov trong hành trang, tôi đã bỏ lại Dos trên sân ga. Song trong những ngày của cuộc chiến quỷ ám này, tôi lại buộc phải nghĩ về Dos và sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử từ Sa hoàng, Sô-viết, hậu Sô-viết, Putin hay hậu Putin, thời nào câu hỏi nước Nga đi về đâu dường như cũng và cũng sẽ nghiêng về câu trả lời của Dos. Rốt cuộc, một đồng nghiệp nổi tiếng khác của ông, Aleksandr Solzhenitsyn, sau hai mươi năm lưu vong ở phương Tây, cũng trở về để cảnh báo hiểm họa một nước Nga trên bờ vực thẳm nếu tiếp tục con đường thân phương Tây của Yeltsin, và – một lần nữa – đề xướng một viễn cảnh Toàn cõi Nga, Toàn cõi Slav, Đại Á-Âu, với nhà thờ Chính giáo và sứ mệnh cứu rỗi một nhân loại đã sa đọa bởi một phương Tây tham lam, tha hóa, dối trá, ẻo lả, phù phiếm, suy tàn. Cho đến khi qua đời năm 2008, nhà văn cựu ly khai trở thành vị minh sư mà viên cựu sĩ quan KGB Vladimir Putin một lòng ngưỡng mộ. Cuộc chiến ở Ukraine hôm nay theo đúng chương trình hành động mà tác giả của Quần đảo ngục tù đề nghị trong hàng loạt bài viết về việc tái thiết một đế chế Nga, ít nhất gồm Đại Nga, Tiểu Nga (Ukraine) và Bạch Nga (Belarus).
 
Ở cõi bên kia, Dos hẳn đẹp lòng. Càng ngày tôi càng thấm nỗi bi quan u buồn của Turgenev.
 
Berlin, 07/3/2022   
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.