Hôm nay,  

Con của hải tặc

23/03/202208:30:00(Xem: 3373)

Truyện ngắn

1- Ann Phong, the journey, mixed media, 40x55, 2014

(30/4 -- Để nhớ kỷ niệm ở trại tỵ nạn Thái Lan)

 

Mới tắm xong, trên đường đi về nhà, thấy dáng te tái bước thấp bước cao của chị Ngao (chị vốn bị thọt chân) hớt ha hớt hải đi về phía tôi, nói không kịp thở:

 

– Nãy giờ em đi tắm, hèn chi chị tìm không ra. Nè, con Phương đau bụng đẻ dữ dội, mấy người mới đưa nó lên bệnh viện đó, em đi với chị ra đó ngay!

 

Trước khi kể tiếp, tôi xin mở ngoặc nói về cái tên “Ngao” của chị… Ngao. Nhóm chúng tôi gồm bốn đứa con gái còn trẻ, hay đùa phá, nên thấy trong lô, trong trại hễ ai có đặc điểm gì vui vui khác người là chúng tôi đặt ngay “biệt danh” để chúng tôi nói với nhau, và gọi nhau cho thân mật. Chị Ngao, có cái tên khai sanh rất đẹp là Hương Giang, nhưng chồng của chị có khuôn mặt to bè, lại đeo cái kiếng đen suốt ngày, chưa kể cái miệng trễ méo xẹo y chang như nhân vật thầy bói Ngao trong tuồng cải lương “Ngao Sò Ốc Hến”, nên chúng tôi tặng ngay tên Ngao cho cặp vợ chồng này là “anh chị Ngao”. Cứ tưởng đó là độc quyền của chúng tôi rồi chứ, ai dè có lần chúng tôi ngồi ăn chè quán chị Ngao thì thấy chị ra lệnh lớn tiếng với anh Ngao:

 

– Ông đi tìm thằng Ngao đòi tiền nợ cho tui nhe, hồi sáng ra dò list bưu điện tui thấy nó có thư bảo đảm đó. Nó ghi sổ hơn tháng nay rồi.

 

Chúng tôi gần như bị sặc chè, nhưng cố nín cười để hỏi chị:

 

– Ủa, ai là Ngao vậy chị?

 

Chị vẫn bực bội:

 

– Thằng Chiến nhà ở D6 chứ ai, tại nó có giọng nói dê xồm như thằng Ngao trong “Ngao Sò Ốc Hến” nên chị gọi nó là thằng Ngao.

 

Dù chưa gặp “thằng Ngao” kia, nhưng chúng tôi vẫn quyết định giữ cái tên Ngao cho vợ chồng này, vì nó rất hợp và chúng tôi đã quen rồi. (Chị Ngao, dạ quên, chị Hương Giang, nếu chị đọc được bài này, xin chị thông cảm và bỏ qua cho chúng em vì đã gọi chị với cái tên khác, nhưng với tất cả sự thân mật, gần gũi, thương mến nhau, và cái tên đó đáng yêu lắm cơ!)

 

Trở lại cái chuyện chị Ngao báo tin con Phương đau bụng đẻ. Sở dĩ chị chạy đến kêu tôi, một phần vì tôi là hàng xóm cùng lô nhà. Phần khác, quan trọng hơn, là tôi quen với chàng bác sỹ người Việt làm trong bệnh viện, cho nên cứ có chuyện đau bụng nhức đầu, cảm cúm giữa đêm khuya là chị cứ réo tôi, để tôi cho thuốc (có sẵn trong nhà, do chàng bác sỹ… cung cấp), hoặc nếu cần thiết thì cùng tôi kéo nhau ra bệnh viện, nơi anh chàng bác sỹ ngủ ở đó hầu như mỗi đêm. Nhìn bộ mặt quan trọng của chị Ngao, tôi càng luống cuống:

 

– Chị chờ em vô nhà chải đầu nhe, mới tắm xong, ướt nhẹp hà.

 

Chị Ngao xua tay:

 

– Thôi khỏi, trại tỵ nạn ai cũng như ai mà, làm đẹp cho ai ngắm? Mình phải lên bệnh viện ngay coi nó có làm sao không chớ!

 

Tôi đành nghe lời, quăng vội mớ đồ dơ vào nhà, để nguyên si cái đầu bù tóc rối, chạy theo chị như bị ma đuổi. Tới nơi thì mấy chị hồi nãy (tạm gọi là mấy chị Tám) đưa Phương lên đây đã đứng sẵn ngoài cổng, báo tin:

 

– Bể nước ối rồi, mới được xe chở ra bệnh viện lớn ngoài trại.

Tôi hỏi, theo thói quen:

 

– Bác sỹ Đức đâu?

 

– Ra ngoải luôn rồi!

 

Cả đám nhìn nhau, rồi quyết định đi về nhà chị Ngao… tán dóc trong khi chờ tin tức từ ngoải đưa về.

 

Chị Ngao chủ tọa, thở dài:

 

– Hổng biết con trai hay con gái đây? Hy vọng con Phương cố gắng mà rặn, chớ đừng để mổ, không tốt chút nào, hại sức khoẻ lắm.

 

Tôi phụ hoạ:

 

– Chiều nào hai vợ chồng nó cũng đi bộ mấy vòng quanh khu nhà, chắc không cần phải mổ đâu, nó dư sức mà.

 

Các chị Tám khác thay phiên nhau vào chuyện:

 

– Cầu mong cho ra con gái, và phải đẹp giống mẹ à nha, nước da trắng bóc, mũi cao, mắt nâu nâu hiền dịu…

 

– Ừa, nếu không giống mẹ mà giống… hải tặc thì tội nghiệp cho thằng Minh quá, tủi thân lắm á!

 

– Bà nói gì đâu không à! Khi chuyến tàu gặp hải tặc hãm hiếp, lúc lên trại gặp Cao Uỷ có cho các bà các cô uống thuốc phá thai phòng hờ, nhưng vợ chồng thằng Minh con Phương khi biết nó có thai đã nhứt định giữ cái thai lại. Tụi nó nói làm như vậy ác nhơn ác đức lắm, cứu một mạng người còn hơn xây mười cái Chùa, đứa bé nào có tội tình gì!

 

– Đúng rồi, suốt thời gian mang thai, con Phương được thằng Minh cưng chiều chăm sóc như trứng mỏng, thiệt là có phước lắm mới có được thằng chồng hiền lành hiểu biết như vậy.

 

– Thì dù sao, thằng Minh cũng biết vợ nó đâu có lỗi gì. Lỗi là lỗi tày trời mấy thằng hải tặc Thái Lan kìa. Cái lũ khốn kiếp tàn ác, hổng có lương tâm!

 

Mỗi người vài câu, nắng chiều tắt hồi nào không hay, mà tin tức từ ngoải vẫn im re.

 

Chị Ngao lại tiếp tục đúc kết với vai trò chủ nhà và chủ tọa:

 

– Ta nói, mình sợ Cộng Sản mới đi vượt biên, ra biển thì lại sợ nạn hải tặc. Cái đám đó sao trời không chu đất không diệt chúng cho tan thây! Mà tàu nào chúng hiếp, rồi cho đi tiếp là còn may phước mấy đời đó nghen, chớ nhiều tàu bị chúng hiếp xong là bắn vỡ tàu, cho chìm hết xuống biển để phi tang, coi như tiêu đời mất mạng. Tao nghe tả mấy thằng hải tặc bặm trợn, cởi trần trùng trục, da đen bóng loáng, xâm xổ đầy mình… mà ớn da vịt da gà. Nói thiệt nha, tàu tao mà gặp chúng nó, thà tao nhảy xuống biển liều chết sướng hơn!

 

Thế là các chị Tám lại lao nhao, lên án hải tặc, càng lúc càng hăng, chỉ thiếu điều muốn đứng lên hô khẩu hiệu “Đả đảo hải tặc, đả đảo hải tặc!!!”

 

Hai ngày sau, tôi đang làm ở bưu điện, chị Ngao lấp ló ngoài cửa. Tôi biết chuyện gì nên xin phép bà boss người Úc cho về sớm, chạy ra gặp chị Ngao:

 

– Phương sao rồi chị? Trai hay gái?

 

Chị Ngao nở nụ cươi tươi hơn khi bán hết chè:

 

– Con trai! Tụi mình đến thăm nha.

 

– Để em ghé qua chợ mua cho nó hộp sữa đặc.

 

Chị kéo tay tôi đi một mạch:

 

– Quà cáp để nay mai đưa cũng được, giờ ghé qua coi mẹ tròn con vuông ra sao, coi cái thẳng lủng đó như thế nào, tao nôn quá chừng.

 

Đến nơi, các chị Tám bữa trước đã có mặt đông đủ. Phương đang ẵm đứa bé, âu yếm nhìn nó dịu dàng, còn chồng Phương ngồi cạnh vợ, sờ nắn tay chân con với tất cả sự vụng về chân thành. Tôi ghé xuống nhìn thằng bé, trời đất, nó không giống mẹ tí chút nào! Ngược lại, nước da nó màu nâu đen sậm, nhưng đậm đà, khoẻ mạnh và đôi mắt đen láy to tròn với hàng mi dài. Chắc mới bú no nên mặt nó tươi cười rạng rỡ. Chị Ngao cũng tiến tới mở lời:

 

– Cho tao ẵm nó miếng coi!

 

Rồi đón lấy thằng bé, hun chụt chụt vào đôi má bầu bĩnh của nó và nựng:

 

– Tổ cha mày chứ, thấy ghét quá à.

 

Mấy bà Tám kia cũng xúm lại, cưng nựng mỗi người mỗi kiểu:

 

– Ui chu choa, cái môi cong cong kìa, cha mày!

 

– Trời ơi, cái mắt ướt rượt kìa, thằng cha mày!

 

– Mèn ơi… Miệng cười này mai mốt con gái xếp hàng dài dài à nha.

 

Tôi bước ra cửa, vì biết không giành nổi với mấy bà đang chết mê chết mệt thằng bé con và thầm mỉm cười. Mới hôm kia, bà nào cũng hăng máu đả đảo hải tặc rất quyết liệt, tưởng như không có gì cản nổi, mà bữa nay ôm cưng thằng… con hải tặc quên trời đất, mà câu nào cũng có chữ “cha mày, cha mày” thiệt là âu yếm, đáng yêu làm sao!

 

Kim Loan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.