Hôm nay,  

Côn Lôn, dưới bóng những cây bàng cổ thụ

4/19/202209:41:00(View: 3085)

conlon

 

Tuổi thơ và ký ức tôi thường gắn với hàng cây ngọn cỏ. Cây cối gần gũi rũ nhẹ bóng cuộc đời như bàn tay mẹ hiền đưa nôi. Tuy phải rời xa đồng quê từ tấm bé, thành phố thời niên thiếu ấy cho đến bây giờ, vẫn là chốn thị thành chấm phá đây đó màu xanh làng quê với hàng tre soi bóng nơi triền sông, phượng đỏ xao xác trưa hè qua mấy nẻo đường hay hình ảnh mấy cây bàng thân sù sì tội nghiệp với những nét khắc vẽ nguệch ngoạc tuổi học trò mùa mưa nào năm xưa.

Hà Nội và một vài thành phố miền châu thổ sông Hồng còn lưu lại trong tôi những hình ảnh đẹp khi xuân sang với hàng cây bàng lá non xanh mơn mởn trong tiết trời  mưa dầm gió bấc. Nhớ những cây bàng ở cố đô Hoa Lư, đoạn đường ngắn từ đền vua Đinh đến vua Lê.

Tuy nhiên, không ở đâu mà những cây bàng mang đến cho tôi sự ngạc nhiên thêm chút lạc quan thú vị, niềm yêu thương cuộc sống và vài nghĩ suy vẩn vơ như những cây bàng cổ thụ ở Côn Lôn tháng 4/2021.

Bốn anh em chúng tôi, đồng môn đại học từ hơn nửa thế kỷ trước, hẹn nhau ở Đà Lạt, xuôi Di Linh, về Vũng Tàu dừng chân tắm biển, hôm sau đi Côn Lôn, nhằm trung tuần tháng 4/2021 để tránh mùa lễ lạc cuối tháng 4 đầu tháng 5; dù vậy chiếc tàu hai tầng Côn Đảo Express màu đỏ trắng ken dày hành khách, ước tính 600, hình như không còn một ghế trống. Theo Hồ Thuyên, tour leader của nhóm, trước đây đi tàu gỗ từ Vũng Tàu ra Côn Đảo mất đến 12:00. Không biết thuở Nguyễn Ánh, từ Cần Giờ, Sóc Trăng hay Phú Quốc vượt trùng dương ra Côn Lôn, chạy trốn quân Tây Sơn, hải trình kéo dài bao lâu?

Đại Nam Nhất Thống Chí, bộ địa chí quan trọng nhất thời nhà Nguyễn ghi chép: Xét đảo Côn Lôn, từ cửa Cần Giờ, tỉnh Gia Định, đi thuyền một đêm một ngày thì đến. Bản triều trước cho lệ vào đạo Cần Giờ, sau đổi cho tỉnh Vĩnh Long quản hạt. (Tập 5. NXB Thuận Hóa. 1997. Trg 154). Theo hướng Đông Nam, Côn Lôn nằm ngang vĩ tuyến mũi Cà Mau, cách xa Vũng Tàu 90 hải lý (1 hải lý: 1852m) và cách cửa Trần Đề ở Sóc Trăng khoảng 40 hải lý.

Khởi hành từ cảng Cầu Đá, Vũng Tàu lúc 8:00, tàu cập bến Đầm ở Côn Lôn lúc 12:00. Người đi lũ lượt như trẩy hội, quần là áo lượt, tay xách nách mang hoa quả, lễ vật cúng kiếng. Hình như, có đến 95% du khách ra Côn Đảo là đi hành hương. Bầu trời cảnh Bụt, thú Hương Sơn/Côn Sơn ao ước bấy lâu nay/Chu Mạnh Trinh. Trong một xã hội mà quyền lực cấu kết với kim tiền, thế sự đảo điên, dịch bệnh tràn lan, lòng người mất phương hướng, tạo hóa gây chi cuộc hí trường/Bà Huyện Thanh Quan, thì thần thánh là chỗ dựa và niềm an ủi cuối cùng. Tôi chia sẻ và kính trọng niềm tin của mỗi người nhưng hành hương lễ bái hay theo dấu nhà tù Côn Đảo, tìm về chốn địa ngục trần gian, không phải là chén trà trong sương sớm hay tách cà phê yêu thích của tôi.

Mùa hè về đây vài ngày/Bên bờ đá nghìn năm nghe sóng vỗ… Vậy là đủ.

Bạn tôi, Hồ Thuyên, lo hậu cần chuyến đi, đặt sẵn hai xe máy ở bến Đầm. Chàng thanh niên giao xe trên bến, có màu da và nụ cười rạng rỡ như cầu thủ Brasin Ronaldinho, anh không cần giấy tờ hay tiền bạc làm tin, chỉ dặn dò vắn tắt: Xe dựng trước nhà trọ, bãi biển…không cần khóa. Chỉ giữ mũ bảo hiểm. Nhớ đổ xăng. Trên đảo chỉ có hai cây xăng. Cứ thế, từ bến Đầm, chúng tôi phóng xe về thị trấn. Hai ông mắt sáng như sao Côn Lôn, tay lái đường trường dày dặn kinh nghiệm Đà Lạt-Di Linh là Nguyễn Văn Cam và Hồ Thuyên cầm lái. Hai ông cận thị mắt kèm nhèm, trông gà hóa cuốc ngồi ôm eo phía sau. Easy Rider. On the road với Jack Kerouac, trên những cung đường Côn Lôn, trong bầu trời nhiệt đới.

Đường tráng nhựa uốn lượn men theo chân núi. Rừng một bên, biển màu ngọc bích với những lưỡi cát trắng xóa đối diện. Có những đoạn, chỉ cần dừng xe, biển xanh ngắt mở rộng vòng tay. Có nơi, phải bám vào những gốc cây để lần bước xuống biển. Đây đó, những khối đá granit đủ mọi hình thù làm phông nền cho phó nhòm Trần Tuấn Phương điều chỉnh ống kính hay là điểm ngắm nhìn hoàng hôn Côn Lôn.

Từ trung tâm thị trấn có hình dáng tựa vầng trăng khuyết, nếu đi theo hướng Tây Bắc là quay ngược về bến Đầm, lướt qua trạm biên phòng, rừng quốc gia Côn Đảo…

Ban mai, đang phóng xe boong boong trên đường thì cơn mưa đầu mùa ập đến, Cam chở tôi chạy về trạm biên phòng trú mưa trong khi Thuyên và Phương vi vu đâu đó gần rừng quốc gia. Đợi hoài không thấy hai bạn, Cam đành phải quay lại, chỉ thấy Thuyên còn Phương… biến mất. Chia nhau đi tìm thì thấy anh đứng nhập thiền bên một tảng đá nhìn ra biển. Côn Lôn Diện Bích! Đâu đó, tiếng mấy con kỳ nhông/gecko kêu ngắt quãng. Ôi! Tuấn Phương, người bạn phiêu lãng và nghệ sĩ nhất trong mấy anh em.  

Côn Lôn bây giờ, hơn cả Sài Gòn hay Hà Nội, đèn đường nhiều nơi tỏa sáng với panneau điện mặt trời. Quay về thị trấn, theo hướng Đông Nam, sẽ đi ngang resort Six Senses ẩn mình trong thiên nhiên, trước mặt là đại dương. Nghe nói Angelina Jolie và Brad Pitt thuở còn mặn nồng đã bao trọn resort này cả tuần lễ. Quanh co đi tiếp sẽ đến đầm Trầu, sân bay Cỏ Ống. Tôi chưa thấy có phi trường nào ở Việt Nam mang cái tên hoang dã và thơ mộng như vậy. Đến Đầm Trầu sau một ngày thỏa sức vẫy vùng sóng nước Côn Lôn, tôi chỉ muốn ngồi xuống chiếc ghế nghỉ ngơi ngắm nhìn những sắc màu chiều tà loang mãi về đâu nơi cuối trời.

Côn Lôn đẹp và đa dạng hơn tôi nghĩ. Thiên nhiên gợi nhớ Sơn Chà Đà Nẵng với những con đường lên cao xuống thấp, đỉnh Lớn Côn Đảo cao 690m nên tầm nhìn bao quát. Sơn Chà còn phải đèo bòng chốn phồn hoa đô hội Đà Nẵng bên kia sườn núi ngăn cách bởi sông Hàn và vịnh Tiên Sa cho nên dù có chùa Linh Ứng và tượng Phật Bà Quan Âm độ trì lưng chừng chân núi, Sơn Chà vẫn thiếu chút an nhiên tự tại, không mấy thanh thản giữa muôn trùng biển khơi. Côn Lôn ám ảnh trong vẻ hoang sơ tinh tuyền.

Côn Lôn phảng phất Phú Quốc nơi miền cực nam của đất nước. ¾ diện tích đất Phú Quốc là bãi cát dài ven biển, Côn Lôn là trường hợp ngược lại, núi quanh co, đèo dốc uốn lượn. Khí trời trong lành. Buồn thay, từ hai thập niên trở lại đây, hương đồng gió biển đảo Ngọc/Phú Quốc đã bay đi tan tác, hòn đảo mà nhà Nguyễn gọi là bức bình phong giữa đại dương đang dần dần chui vào chiếc thòng lọng ma quái có tên… như tô giới thời liệt cường xâu xé Trung Hoa vào giữa thế kỷ 19. Bạn thân mến, hãy đến Côn Lôn trước khi quá muộn.

Từ bãi biển gần thị trấn, xa xa hòn Bà mà Đại Nam Nhất Thống Chí gọi là Tiểu Côn Lôn, cách một eo biển hẹp cửa Đầm Veo nằm phía đông nam. Đối diện với Đại Côn Lôn nay là thị trấn Côn Đảo là hòn Bãi Cạnh, hòn Cau, hòn Tre lớn, Tre nhỏ…mà chúng tôi chưa có điều kiện đặt chân đến. Bởi lại phải quay về bến Đầm thuê thuyền ra đảo. Thôi thì sức người có hạn, chân đã bước liêu xiêu, đành phải vận dụng trí tưởng tượng bởi Côn Lôn có đến 16 đảo lớn nhỏ.

Côn Lôn nằm trên hải trình từ Ấn Độ xuôi vịnh Bengale, biển Andaman, eo biển Malacca vòng lên biển Đông và Trung Hoa nên thương thuyền phương Đông và Tây thường nhắc đến Poulo Condore. Người Mã Lai gọi là Pulau Kundur hay là đảo Bí. Pulau hay Poulo tiếng Mã Lai là đảo, cù lao. Trung Hoa phiên âm Kundur thành K’ouenlouen, như môn phái Côn Luân trong truyện kiếm hiệp Kim Dung, Việt hóa thành Côn Lôn, Côn Nôn, bây giờ gọi là Côn Đảo.



Theo dòng. Những cuộc phát kiến địa lý quan trọng đã góp phần thay đổi bản đồ địa chính trị vùng biển đảo này. Từ đầu thế kỷ 17, ba Công Ty Đông Ấn Hòa Lan, Anh, Pháp chia nhau chiếm lĩnh thế giới, như những ông lớn Google, Microsoft, Facebook đang chi phối từng quốc gia, phận người bây giờ… Hòa Lan có thương điếm Batavia/Jakarta ở Nam Dương quần đảo. Ngoài vài cứ điểm ở Mã Lai, Anh đã xây dựng một pháo đài ở Côn Lôn năm 1702 nhằm chuẩn bị hình thành một thương điếm mới. Ba năm sau, quân thổ phiên Mã Lai và Java làm việc cho công ty Đông Ấn nổi dậy, tàn sát người Anh, chỉ có 3 người chạy trốn sang Malacca. Sử liệu Việt Nam có nhắc đến biến cố này xảy ra thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), dưới một góc nhìn khác.

Chưa tròn 20 năm sau, đến lượt Pháp khám phá Côn Lôn. Một nhóm tiền trạm được gửi đến khảo sát Côn Lôn mà họ gọi là đảo Orleans. (Theo G. Taboulet. La Geste Francaise en Indochine. Tome 1. Adrien-Maisonneuve. Paris.1955. Trg. 114,115,116). Phúc trình năm 1723 của nhóm nghiên cứu ghi nhận tình hình bi quan và u ám của Côn Lôn, chỉ khen duy nhất là không khí ở đây trong lành.

Thuở ấy, trên đảo có gần 200 cư dân Việt trong đội Bắc Hải đến từ Bình Thuận hay Cảnh Dương, tức Ròn ở Quảng Bình. Họ là ngư dân tình nguyện được triều đình miễn sưu thuế, đến đây thu lượm yến sào, đồi mồi, vích, ba ba…hay xác những tàu đắm trôi giạt.

Hơn 60 năm sau, Côn Lôn lại được nhắc đến trong Hiệp Ước Versailles ký ngày 28/11/1787 khi Giám Mục Bá Đa Lộc đưa Hoàng Tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Hiệp ước có điều khoản quy định việc Nguyễn Ánh nhường lại Hội An, Đà Nẵng, Côn Lôn và chấp thuận quyền tự do buôn bán của Pháp ở nước ta, đổi lại Pháp giúp Nguyễn Ánh 4 chiến thuyền, 1650 quân và một dàn trọng pháo… Bá Đa Lộc cùng Hoàng Tử Cảnh đi sứ sang Pháp, cầu viện triều đình Louis 16 trong bối cảnh cực kỳ khủng hoảng của chế độ quân chủ đêm trước Cách Mạng 1789. Cách mạng Pháp thành công. Chế độ quân chủ cáo chung. Hiệp Ước không còn hiệu lực. Từ năm 1789 đáng nhớ ấy, sau khi bình định Sài Gòn-Gia Định-đồng bằng sông Cửu Long, cán cân quyền lực Tây Sơn-Nguyễn Ánh nghiêng về phía Nguyễn Ánh. Trong thế thượng phong, Nguyễn Ánh chuẩn bị phản công Tây Sơn.

Côn Lôn chính thức về tay quân Pháp cùng với ba tỉnh miền Đông: Gia Định, Biên Hòa và Định Tường/Mỹ Tho theo Hòa Ước Nhâm Tuất 1862. Pháp sợ Anh phỗng tay trên Côn Lôn nên sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông, đô đốc Bonard đưa quân ra Côn Lôn xây dựng hải đăng, bảo vệ chủ quyền.

Từ cuối thế kỷ 19, Côn Lôn trở thành… quần đảo ngục tù. Văn chương, thi ca, kịch nghệ, hội họa Pháp…thì lãng mạn và nhân bản, nhất là trong thế kỷ 19, cớ sao thực dân Pháp lại chọn một nơi đất trời đẹp đến say đắm lòng người như vậy để xây dựng nhà tù. Poulo Condore là nơi thực dân Pháp giam giữ những sĩ phu, nhà yêu nước đi đày sau thất bại của các phong trào Cần Vương, Đông Du và Duy Tân, vụ Kháng Thuế Trung Kỳ, Đông Kinh Nghĩa Thục, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Tân Việt Cách Mạng Đảng, Đông Dương Cọng Sản Đảng…

Nhà tù Côn Đảo tồn tại đến năm 1975. Trong muôn vàn chính sách sai lầm của bên thắng trận sau 1975, quyết định chấm dứt nhà tùCôn Đảo là hợp lý. Dĩ nhiên, quần đảo ngục tù đâu đó vẫn trải dài trên quê hương đất nước này.

Từ phòng trọ mang cái tên tiền định Gia Long, nhìn ra công viên bãi cỏ xanh mướt, có hàng bàng cổ thụ tỏa bóng rợp trời, có đặc sản mứt bàng Côn Đảo, bên kia đường là khối tường xám u ám nhà tù Côn Đảo ngày nào. Trong cảnh tù đày, Phan Chu Trinh làm thơ, Huỳnh Thúc Kháng học tiếng Pháp, Bửu Đình viết tiểu thuyết… Có tù nhân liều mình vượt ngục và chết trên biển.

Dưới bóng gốc bàng, chúng tôi ngồi nghe gió thầm thì kể chuyện cũ, chuyện mới… Côn Đảo bây giờ có khoảng 10.000 dân tập trung ở thị trấn và rải rác trên vài đảo. Trừ nguồn hải sản phong phú tại chỗ, tất cả đều phụ thuộc vào đất liền. Lúa gạo từ đồng bằng sông Cửu Long, rau, củ, hoa trái…từ cao nguyên. Như bất cứ nơi nào trên hành tinh, bạn chỉ cần vào chợ là đầy đủ dưỡng chất trần gian… Chợ và khu vực quanh chợ là nơi ăn uống ngon, giá cả nhẹ nhàng nhất.

Cà phê Côn Đảo ngon không thua gì Đà Nẵng. Xin giới thiệu cà phê sân vườn Ngộ với cổng nhà ghi năm xây dựng 1928 bằng gốm men xanh Lái Thiêu, nơi chúng tôi ghé lại buổi sáng cuối cùng trước khi chia tay Côn Đảo.

Trừ vài khách sạn và cơ sở hành chánh xây dựng gần đây, kiến trúc Côn Lôn mang phong cách thuộc địa những năm 20 của thế kỷ trước, nhà trệt và thấp, tường dày, mái diềm che hành lang hình bán nguyệt, tương tự nhà phố Tây Phan Bội Châu ở Hội An. Nhà thấp để thích nghi với gió bão Côn Đảo.

Nhắc đến gió bão, nhớ câu chuyện gió đuôi chuột bà chủ nhà trọ vừa kể… Biển Côn Lôn trưa chúng tôi rời đảo. Trời quang không một gợn mây. Bỗng đâu, từ chân trời, mây đen giăng tỏa, gió lốc cuồn cuộn. Hễ mây trắng kéo đến, gió lại càng dữ dội. Mưa vần vũ, khoảng một giờ sau thì dứt. Mưa gió Côn Lôn khiến tôi liên tưởng bước đường bôn tẩu của Nguyễn Ánh tháng 7/1783. Ông bị phò mã Tây Sơn Trương Văn Đa bao vây tại Côn Lôn, không đường thoát, gần như tuyệt vọng, nhờ gặp cơn bão hay gió đuôi chuột (?) mới cưỡi thuyền con rẽ sóng chạy thoát. Thuyền chạy giữa biển 7 ngày không nước uống, Nguyễn Ánh ngửa mặt khấn trời, bỗng nhiên nước biển hóa thành nước ngọt, quân sĩ khỏi chết khát. Có lẽ, nước biển hóa thành nước ngọt là nước mưa hứng được sau gió bão chăng?

Lần đầu đến Côn Lôn. Có lẽ, lần đầu và lần cuối.

Người ta thường ví von: chuyến đi chơi thành công là một cuốn truyện hay mà bạn đồng hành là những nhân vật chính. Dọc đường gió bụi, cảnh vật, con người, giai thoại đây đó…có thể nhớ hay quên. Riêng bạn đường xa vẫn mãi trong tim. Nhớ Nguyễn Văn Cam ở bãi biển Côn Đảo. Cam giống nhân vật Vọi trên biển Sầm Sơn có hòn Trống Mái của Khái Hưng. Chạy xe đường trường đêm Côn Lôn, đạo quân phù du thiêu thân bay mịt mù vậy mà anh phóng xe ào ào, tóc dựng ngược khiến kẻ ngồi sau… thót tim. Keep cool! Cam ơi, cuộc đời vẫn đẹp sao…

Hồ Thuyên, người bạn chân tình lặng lẽ như núi rừng Di Linh, anh luôn chuẩn bị rượu vang, cà phê và nhiệt tình pha cho bạn, dù mình không ghiền. Thuyên là trưởng đoàn kiêm thủ quỹ của chuyến đi. Chúng tôi chỉ biết hoan hỉ lên đường, không vướng bận riêng anh đứng lại… chi trả.  

Trần Tuấn Phương nữa. Anh lành và thiện tri thức trong một xã hội đảo điên đến cùng cực. Có ông bà nội nào trong mùa đại dịch này, vừa dạy vừa chơi trốn tìm với cháu, chuẩn bị lớp 1 cho cháu năm học đến, mà lại… online. Huế và quận ngoại thành Bình Tân, Sài Gòn cách nhau chỉ có ánh mắt.

Bốn anh em chúng tôi với góc nhìn cuộc sống, thân phận mỗi người mỗi khác nhưng hoài bão thì gắn kết khát vọng muôn đời của một thế hệ yêu mến cái đẹp, sự công chính, dân chủ và những quyền tự do căn bản.

Đêm giã từ Côn Đảo. Trên bãi cát vắng không xa Hàng Dương, sóng vỗ nhấp nhô như từ nghìn năm trước. Sóng Côn Lôn. Sóng trong lòng mỗi người.

Bao giờ thì anh em mình lại khởi hành đây?

 

– Tống Văn Thụy

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.