Hôm nay,  

Chiến tranh

6/20/202222:48:00(View: 3795)

Tùy bút

 

z 1 8 war ukraine dhsg
 

Nếu mỗi người có một ngàn kiếp sống

Chẳng nghĩ suy nếu chết đủ ngàn lần…

-- Chúc Thanh

 

Chiến tranh, ai cũng sợ vì chiến tranh súng đạn bắn giết, mang lại những đau khổ triền miên, người Ukraine họ đang chạy nạn chiến tranh.

 

Tu entendras crier les pauvres

Tu entendras gémir ce monde!

 

Đã gần nửa năm trôi qua, người tị nạn Ukraine có nhiều người muốn trở về quê hương của họ.

Vì cảnh ăn đậu ở nhờ nơi tạm dung làm họ cảm động và xót xa. Tôi thấy một bà lão già, trong một bữa ăn, bà ngồi nhìn mãi cái ngăn đồ ăn trước mặt có thịt, đậu hầm và bánh mì. Một nhân viên điều hành cứu trợ hỏi:

 

« Sao bà không ăn đi… Ăn đi kẻo nguội! » Bà lắc đầu và nói bà chỉ muốn trở về nơi ấy.

 

« Quê hương đang đánh nhau khói lửa, làm sao về ngay được… rồi sẽ bình yên, sẽ về sau. »

 

« Tôi muốn về ngay, xem và làm lại nhà tôi… »

 

« Điện nước, cầu đường… cả một hệ thống bị phá hủy hư hại, bà kiên nhẫn đợi… mọi người sẽ cùng làm sau, một mình bà bà làm gì nổi! »

 

Bà lặng lẽ khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi còn lại lăn dài xuống má, xuống cằm, rớt một hai giọt xuống đĩa đậu hầm.

 

« Tôi chỉ muốn về nhà đợi, biết đợi đến bao giờ, tôi già lắm rồi, tôi sợ không kịp. »

 

Con người là vậy, mình có thể rời xa nhà mình, mà nhà mình thì không bao giờ ra khỏi mình.

 

Vì sau hơn một tháng, Kiev không còn bị Nga pháo kích và không kích nữa, chiến tranh đã chuyển lên Donbas. Cho nên cư dân họ muốn hồi hương, việc hồi hương của người Ukraine tràn lan ở biên giới, những xe hàng rồng rắn, xe bus, xe tư nhân nối đuôi nhau đông nghẹt chờ đợi để cùng nhau về lại quê hương.

 

Ông Roman Makar, tài xế xe bus, bảo là chưa bao giờ thấy đông người về như thế đó, càng ngày càng đông thêm. Cuộc gặp gỡ ở biên giới, phải nói là đoàn tụ thì đúng hơn, đầy nụ cười và cũng đầy nước mắt. Ông Yuki Vasylli đã 70 tuổi, thổi saxo mừng gặp lại vô số hàng xóm, người thân và người không quen. Tất cả họ, cũng như ông, còn sống sót. Người bạn trẻ Vassyly Boryko lau nước mắt, khi biết tin cha mẹ anh đã mất ở quê nhà do bom đạn khốc liệt cuối tháng 4. Cô gái Anna Bori hớn hở sách khăn gói lên xe bus trở về, cô nói cô không còn sợ hãi nữa, mình chỉ chết khi nào Chúa điểm danh và gọi tên mình, tôi đang trở về nhà tôi và không bao giờ  tôi rời đi nữa, tôi đang thấy hiện ra trước mắt tôi một quê hương tươi sáng, một quê hương trước ngày Nga khai chiến, ở đó, là một quê hương tươi sáng không bao giờ phai mờ.

 

Vâng, qua đống đổ nát đó, tôi còn nhìn thấy một ngôi nhà quen thuộc, đó là nhà tôi, và bây giờ có những ngôi nhà có thể bị xiêu vẹo cháy xém, là những ngôi nhà bị thương. Những ngôi nhà đổ sập là những ngôi nhà đã chết. Có thể còn những ngôi nhà còn nguyên mà các cánh cửa đóng kín mít, đó là những nhà chủ vắng nhà, những ngôi nhà kín cửa là những ngôi nhà mù lòa, chúng ta phải về để mở cửa chúng ra, chữa cho chúng khỏi bị mù lòa kinh niên. Và người Ukraine đã tới tấp trở về, họ còn có một quê hương để trở về!

 

Nhưng trong hơn một tháng qua, Kiev không bị Nga pháo kích và không kích, nay người di tản trở về, đang trở về thì Nga lại nổi điên, lại mang bom đạn tới dội, thì những người hồi hương đó sẽ ra sao? Chiến tranh chuyển động và chuyển mình như người bị sốt rét, bị bệnh kinh niên, nay thế này, mai lại thế khác. Có trời mà biết!

 

Tôi lo lắng bồn chồn, và tôi nhớ lại những năm tháng đã qua, cuộc chiến thảm khốc kéo dài lê thê trên quê hương Việt Nam, những con người đã từng « dựa lưng nỗi chết » (1) là những con người nhậy bén để cảm nhận « nỗi buồn chiến tranh » (2). Ngay từ khi tôi mới sáu, bẩy tuổi, tôi đã phải đi tản cư. Gia đình nhỏ bé của tôi ở ngoài miền Bắc Việt Nam, quê tôi nằm bên kia sông Thái Bình, mạn biển. Thụy Anh, Thái Bình. Khi mẹ tôi mất rồi, dì tôi về thế chỗ mẹ tôi, dì có thêm cho tôi một đứa em trai. Dì ghẻ mà không ghẻ, dì hào phóng nuôi tôi như một đứa con gái ruột. Chị em tôi rất hòa thuận, mỗi lần dì tôi chia phần ăn, cơm, cá, bánh trái, hoa quả, bà luôn chia cho hai đứa hai phần đều nhau, có khi tôi được hơn em tôi một chút, vì bà nói là: « Chị nó ăn hơn con một chút là tại nó có cái bụng lớn hơn bụng con. » Thằng cu em chợt xoa bụng nó và ngó tôi mỉm cười. Chúng tôi sống ở miền quê, rất thôn dã, quê tên là Thái Bình mà thật ra cũng hiếm có khi Thái Bình!

 

Dì tôi thuần túy là nông dân sống với ruộng vườn. Hồi đấy, tôi còn nhỏ, thơ dại, mà tôi vẫn nhớ đến nay, tôi nhớ như in, là những năm tháng 1948-1950 quê nhà nằm giữa vùng giao tranh của Pháp và Việt Minh. Tôi cứ suy nghĩ và nhớ hoài giai đoạn đó, vì đã có lúc tôi tự hỏi có phải vì thời kỳ 100 năm bị đô hộ giặc Tây, mà giặc Tầu là Trung Quốc, tới ngày nay chưa nuốt trọn, xâm chiếm gọn Việt Nam, như nó đã từng ăn gỏi nước Tây Tạng của Đức Đạt Lai La Ma?

 

Tôi nói vậy, không phải là tôi cám ơn thực dân Tây, mà sự việc gì nó cũng có tác dụng và tạo ra phản tác dụng, nhưng nhờ đó, tôi nhớ hoài kỷ niệm đi tản cư và hồi cư thời thơ ấu.

 

Cứ như thế đó mà tôi lo sợ và nghĩ tới người Ukraine cuộc đi và về ở hai nơi này có hơi và cũng rất nhiều điểm giống nhau.

 

Quê tôi, ngày xưa đấy, gọi là vùng tề, đêm Việt Minh về gây rối, thu thuế, bắt người, rải truyền đơn y như là làm truyền thông ban ngày, Tây lại lên làng càn quét, bao vây, bắn phá, đốt nhà dân chúng lấy đi đồ ăn và đồ dùng của dân, y cảnh lính Nga tràn vào Ukraine, Kherson, Bucha. Chúng ăn cướp của dân, giết người, cưỡng bức… mà người ta gọi chúng là bọn thổ phỉ, mà khi chiến tranh xẩy ra ở đâu, là có thổ phỉ ở đó. Thổ phỉ Nga, theo hình ảnh in trên mạng, chúng lấy cả đồ ăn và đồ dùng như điện thoại và đồng hồ của nhà người dân.

 

Khi phát biểu tại trụ sở NATO ở Bruxelles, Macron Emmanuel, tổng thống Pháp muốn thu thập các bằng chứng tội ác chiến tranh ở Nga, đề nghị cho hiến binh và thẩm phán đến tại chỗ thu lượm các hình ảnh chứng cớ để đưa họ ra xét xử trước tòa án hình sự quốc tế. Họ được tổ chức Human Rights Watch đồng thuận và đồng hành.

 

Xin được đi ngược thời gian, ăn cơm mới nói chuyện cũ. Trở lại chuyện tản cư xa xôi khi tôi còn bé, những lần làng quê bị Tây bố như vậy thật là khổ cực, người già trẻ lớn bé tự động rỉ tai báo động, rồi bồng bế con cái, mang theo chút ít lương thực tránh lên làng trên đó ít ngày, đợi tình hình yên yên hết tiếng súng, lại lục tục kéo nhau về. Có những lần chạy kịp là may, có những lần chậm chân, gặp Tây, là có vài người bị bắt, có người bị nghi là Việt Minh bị bắn chết, sau đó, trong làng lại có vài đám ma, lại u buồn ủ giột ít ngày.

 

Tôi cũng không hiểu sao chúng tôi còn may mắn sống sót. Dì tôi nói là có Phật Trời gia hộ, có phước đức ông bà chở che và chúng tôi chưa tận số. Chớ lần nào có giặc tới, là chúng tôi cũng chạy sau hết mọi người. Ông bà, cô chú, làng xóm luôn luôn chạy sớm. Còn dì tôi, vì cố tật tham công tiếc việc, nên luôn luôn ba chúng tôi chỉ rời nhà, rời ngõ khi tiếng súng “cắc bọp” đã vang lên loáng thoáng ở đầu làng.

 

Lúc sớm thì cả nhà có rủ đi chạy loạn trước, hai chị em tôi cũng không đi theo, cả hai đứa nặng nặc ở lại để đợi dì tôi từ ngoài cánh đồng về. Có lần máy bay ruồng bố quá, hai đứa tôi ôm nhau chui lọt xuống cái cối giã gạo trong nhà bếp. Có khi dì tôi về tới thì nhà đã vắng hoe, còn mỗi mình chú Thi, là con nuôi của ông nội, chú ngồi lại ở vườn chuối sau nhà, chú tình nguyện ở lại coi nhà và có lẽ chú lo cho hai đứa tôi đang rất nguy khốn một mình trong căn nhà thênh thang. Dì tôi gan dạ lắm, về trễ nhưng không chạy ngay đâu, còn lùa rơm và trâu vào chuồng, cho gà qué ăn rồi đuổi chúng đi, cài cửa kho lúa, dặn dò chú Thi những hầm ẩn trốn an toàn, v.v… Xong hết ngần ấy việc dì mới dắt hai đứa tôi cùng ra khỏi cổng, có lúc vừa đi vừa chạy.

 

Thường giặc theo đường đê, vào đầu làng, chúng tôi thoát ra bằng ngõ cuối làng sau đình. Phải qua, lội qua một cánh đồng lúa nước khá mênh mông, mới vượt xa được tầm giặc Tây, thoát được lên làng trên đó là quê của dì, làng Yên Lệnh, bên cạnh là Đồng Tỉnh.

 

Người Bắc hay hát:

 

Ai lên Đồng Tỉnh Huê Cầu,

Để thương để nhớ để sầu cho ai…

 

Chẳng biết với người khác thì thơ mộng làm sao, chớ với dì tôi, thì chỉ có mấy thằng Tây thực dân, mắt xanh mũi lõ là để khổ để sầu cho bà ấy rất nhiều!

 

Vì lỗi cũng phần lớn là tại dì, dì đi tản cư sau mọi người, vừa chạy vừa dắt theo hai đứa tôi, miệng vừa lẩm bẩm niệm Phật. Mà điều oái oăm hơn là dì tôi đi sau mà lại cứ thích về trước mọi người. Bà tham công tiếc việc lắm, đến nơi lánh nạn rồi, mà đứng ngồi không yên, hễ nghe ngóng tình hình, êm êm tiếng đại bác, là bà giục chúng tôi sửa soạn dắt díu nhau về làng. Dì sợ lỡ nắng quá, ruộng khô tát nước không kịp, mạ non lớn mau, cấy không xong… Thế nên đã có lần đêm khuya thanh vắng chúng tôi lần mò về nhà sau vài ba ngày đi chạy loạn. Vừa kịp lội lên khỏi đầm nước thì bất chợt nghe tiếng người quát tháo, cả hàng tràng súng liên thanh bắn vào đêm!

 

Mẹ con, dì cháu sợ quá, nằm mọp sau mấy ngôi mộ mới còn cao, nằm suốt đêm, bà nắm chặt mỗi đứa tôi một cái chân, đợi gần sáng, lại mò mẫm lội ngược trở lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu, Yên Lệnh ở thêm vài ba ngày nữa.

 

Đã có lần giặc lên gấp quá, dì tôi về trễ như mọi lần, mà lúc ra đi, dì còn dắt theo ngoài ba chúng tôi, một con trâu cái, là vốn liếng của dì. Ra tới bờ đầm, dì vội vã lùa trâu xuống nước, rồi bà bế xốc hai chị em tôi lên lưng con trâu, dặn chúng tôi ôm nhau cho chặt và chắc. Một tay dì tôi đeo một bao gạo khá nặng, một tay lôi thừng trâu kéo nó đi theo bà. May mắn con trâu cái lội nước quen nên đi theo người thoăn thoắt, y là nó linh cảm nguy hiểm ở phía sau. Cu em tôi nghe đạn bắn veo véo, sợ quá cùng siết chặt vai nhau cúi rạp đầu. Ngồi ngất ngưởng trên mình trâu như vậy mà hai chị em tôi không bị trúng đạn. Người bị thương lại là dì tôi, bà bị bắn vào bắp chân, con trâu dường như bị đạn xuyên qua bụng.

 

Dì tôi chỉ kịp kêu to một tiếng “Ối giời ôi!” bước lạng quạng thêm vài bước rồi té ùm xuống nước. Con trâu cũng khuỵu gối xuống theo dì. Hai chị em tôi bò loi ngoi lóp ngóp trong đầm nước đục ngầu đỏ loang máu!

 

Lần đấy, nhờ thanh niên tự vệ của làng đến cứu kịp. Dì tôi, trời Phật thương, đau ốm vài tháng rồi cũng qua khỏi. Coi vậy chớ dì tôi khóc tức tưởi mãi khi người ta mang võng đến võng dì đi. Bỏ lại con trâu cái hấp hối chờ chết trong đầm nước. Những ngày kế tiếp, trong cơn sốt nóng li bì, dì cầm tay tôi căn dặn nhiều lần: “Nhắn chú Thi chôn giùm xác con trâu cho dì.”

 

Đó là những chuyện xa xưa rất xưa rồi…

 

Hôm nay, nhìn một bà đầm Ukraine, vai đeo giỏ nặng, một tay bế một đứa con nhỏ, một tay kéo theo một con chó médor yêu dấu, cả ba đều chạy theo xe bus đi di tản, nét mặt họ đầy vẻ hoảng loạn, vừa đi vừa sụt sịt khóc. Người Tây cứ sợ là khóc thôi.

 

Nói vậy chớ tôi rất bần thần lo lắng với họ, chiến tranh khi nào cũng giống nhau, đầy sợ hãi, bi thuơng, kèm theo là chết chóc, rồi tử biệt sanh ly, tiếp theo sau chiến trường, là những con đường đi rất vắng vẻ, những hàng cây trơ trụi và một không khí ảm đạm thê lương, một ánh sáng trắng bạch hơi đục, ánh sáng của nến, của đèn cầy của con đường dẫn dắt tới một cõi âm u.

 

Hồi chiều nay, ngày 6/6, tôi nghe nói trên RFI, truyền thông loan tin và luận đàm chiến sự, có người không bằng lòng ông Emmanuel Macron, vì ổng nói là: “Putin đã phạm một sai lầm căn bản, Putin tự cô lập, tự cô lập là một chuyện, muốn thoát ra khỏi điều đó lại là một lộ trình khó khăn, mọi người cũng không nên làm nhục nước Nga”.

 

Có lẽ đúng là Macron, ông ấy nói quá lời, tự ông Putin, ông ấy đã làm nhục nước Nga rồi, vì ông ấy hiếu chiến và hiếu sát. Tuy nhiên, đối với tổng thống Pháp, đây chỉ là một lối nói ngoại giao, một lời nói chính trị thì đúng hơn, vì tổng thống Macron không phải là người ác, tâm sinh tướng, cứ nhìn mặt Macron, ông ấy luôn muốn gợi ý chấm dứt chiến tranh bằng ngoại giao, bằng đối thoại, mà muốn đối thoại với nhau được, thì hẳn là không được hạ nhục nhau, phải mở ra cho kẻ cùng đường đi (có thể là một con chó dữ) một lối ra, một khung cửa hẹp để thoát ra mà không cay cú, không cắn quàng nhau.

 

Đáp lời, Ngoại trưởng Dmytro Kuleba của Ukraine phát biểu tiếp theo trong một “tweet” cá nhân rằng: “Lời kêu gọi của ông Macron kêu gọi tránh làm nhục Nga, chỉ có thể làm nhục nước Pháp và mọi quốc gia khác chủ trương kêu gọi điều này.”

 

Trong hoàn cảnh chiến tranh đang căng thẳng tột cùng, mà dùng thông tin dẻo miệng đổ thêm dầu vô lửa, e rằng chỉ làm cho cuộc chiến điên cuồng hơn, vô phương bàn luận rồi, hãy nghe bài thánh ca của chúa:

 

Ecoute la voix du Dieu

Prête l’oreille de ton cœur

Tu entendras que Dieu fait grâce

Tu entendras l’Esprit d’audace

Ecoute la voix du Dieu

Prête l’oreille de ton cœur

Tu entendras crier les pauvres

Tu entendras gémir ce monde! (3)

 

Thử hỏi tại sao người Việt ở hải ngoại không thể nào và không bao giờ hòa hợp hòa giải được với chế độ Việt Nam đang cai trị trong nước? Câu hỏi đã có sẵn câu trả lời trong câu hỏi, vì là cộng sản đã đầy đọa và đã sỉ nhục người Việt Nam tự do nhiều quá, nhiều đến mức gọi là vô bờ bến!

 

Khi một cuộc chiến quá lâu, quá thê lương như cuộc chiến Việt Nam, khi tàn cuộc chiến, thì bên thua chưa hẳn là nhục, và bên thắng cuộc cũng chẳng vinh quang gì. Vì họ, cả hai đã thảm sát nhau quá nhiều, kể cả nhân mạng và tình người. Khi đã buông tay, giã từ vũ khí, mà còn hạ nhục đối phương thì chẳng bao giờ đối phương có thể xích lại gần, mà tôi đây, « tôi » thắng cuộc, tôi cũng muốn tâm sự rằng:

 

Đi ra thì nói thì cười

Áo quần sạch sẽ cho người khỏi khinh

Về nhà mình chuyện với mình

Lưng trần, quần cộc, quẩn quanh trong nhà

Trời ơi, chân giả tháo ra

Cò cò lết lết như là trẻ con

Trót duyên một chút văn chương

Đêm ngày bò xổm trên giường viết văn

Khi đọc khi viết khi ngâm

Nghe trong gan ruột âm thầm riêng ta…

(Thơ của Hoàng Cát)

 

Ai cũng muốn kết thúc chiến tranh trong vinh quang để ca khúc khải hoàn, đó là lý tưởng. Vậy ai thua? Chưa có câu trả lời.

 

Chỉ mong rằng Thượng đế luôn công bằng, rằng kẻ nào gieo gió sẽ gặt bão lớn.

 

Còn tiền tệ và tiền lệ của chiến tranh là máu. Khi các gia đình chôn cất người thân của họ ở Ukraine, một số người, tiêu biểu là môt người khá lớn tuổi, tên là Mitry Vassyly ở Bakhmut, ông ấy đặt câu hỏi về giá máu mà họ phải trả, và hỏi rằng:

 

“Liệu có tốt hơn nên trả cho một lệnh ngừng bắn bằng cách nào, bằng đất đai hay bằng máu và mạng sống?”

 

Tôi rất quan tâm và suy nghĩ mà tôi cũng không trả lời được, phải trả lời thế nào cho đúng cả về lý trí và tình cảm? Chịu thua!

 

Tôi chỉ biết là chỉ những người đã sống trong chiến tranh, sống với bom rơi đạn nổ khi mặt đất rung rinh vần vũ, máu lửa vung vãi ngột ngạt, ta chạy đi đâu trong căn nhà lửa tam giới, thập giới này? Ở đâu mình cũng có thể chết, chết một lần, chết hai lần và cả ba lần hay bốn lần…

 

Khi con người ta “dựa lưng nỗi chết” (1) thì con người ta dễ cảm nhận nhậy bén “nỗi buồn chiến tranh (2)

 

Chúc Thanh

(Paris, 6/2022)

 

(1) Tác phẩm của Phan Nhật Nam.

 

(2) Tác phẩm Bảo Ninh.

 

(3) Xin tạm dịch cho thoát ý:

 

Hãy nghe tiếng nói của trời,

Hãy nghe nhịp đập của lời trái tim,

Con sẽ thấy Thượng Đế ban ơn!

Con sẽ thấy tinh thần dũng cảm!

Hãy nghe tiếng nói của trời

Hãy nghe nhịp đập của lời trái tim.

Con sẽ thấy người nghèo kêu than!

Con sẽ thấy thế gian rền rỉ!

(Bài ca của Nhà nguyện Ste. Jeanne Antony)

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.