Hôm nay,  

1976, những điều tôi biết

22/08/202520:27:00(Xem: 2225)
DTChinh_3
Tranh Đinh Trường Chinh.



Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây.

Tôi muốn nhìn thấy Thái Bình Dương. Tôi muốn được nhúng chân xuống biển.

Sau nhiều ngày đêm, nhiều ngàn cây số, tôi tới San Francisco, nơi tôi không quen biết bất cứ ai.

San Francisco đẹp như những tấm bưu thiếp du lịch. Có những tòa nhà rất cao, có rừng thông, có biển rất xanh, có cây cầu treo Golden Gate màu vàng rực.

San Francisco thơ mộng như lời những bài hát. Bạn sẽ thấy thành phố này có những người cài hoa trên tóc, những hippies, có những người đọc thơ hoặc giảng đạo ngoài đường, hoặc những con đường dốc như nửa đường leo tới mặt trăng.

1976, tôi vẫn yêu Liên ở Việt Nam.

1976, tôi yêu Leslie ở California. Cô đã dạy tôi yêu Vivaldi yêu Louis Armstrong yêu Nina Simone. Tôi yêu giọng xướng âm tiếng Mỹ hoàn hảo của cô. Tôi yêu cả cần sa, yêu Whiskey, yêu cuồng nhiệt trong chiếc xe cà tàng con cóc nhỏ bé của cô.

Lúc ấy, tôi không biết Leslie là một thiên thần, đã dạy tôi cách quên, cách sống, cách bay bổng, cách lao vào thế giới khác.

Lúc ấy, tôi chỉ là một tên vô gia cư ngủ bụi, ngủ xe, ngủ sofa, ngủ sàn nơi những người quen dọc đường. Tôi chỉ có mấy bộ đồ cũ và một ít tiền mặt.

Tôi vẫn nửa ngọng nửa điếc. Gần Leslie, da tôi vẫn vàng bên cạnh một màu da trắng. Rất trắng.

Trắng như mưa. Như sữa.

Tôi yêu những nhún nhảy tự tin của cô, những bữa ăn trưa thức ăn nhanh ngoài công viên, những kiên nhẫn của cô đưa tôi vào thư viện Berkeley với một khu đầy sách Việt, những tò mò vì cô nghe những người lính Mỹ tham chiến khi về nước kể lại Việt Nam chỉ là một nước không có cầu tiêu lẫn Ice cream.

Tôi yêu chuyến xe nhiều ngày dọc những rừng thông khổng lồ lên phía Oregon. Đi trên một đất nước quá rộng quá giàu, tài sản lớn nhất của tôi lúc đó chỉ là sự ngây ngô của một di dân mới tới: tôi chưa biết sợ.

Nhưng chỉ chưa đầy 2 tháng, chúng tôi chia tay. Hình như giữa tôi và cô vẫn có những khoảng cách. Khoảng cách ngôn ngữ là một thứ có thể rất gần mà cũng rất xa. Lúc ấy và bây giờ, không giải thích nổi. Chúng tôi chưa một lần cãi cọ.

Nhiều thập niên sau, tôi mới biết lúc ấy tôi đã có những ngày trăng mật.

1976, tôi vẫn nhớ Việt Nam điên cuồng.  Một quê hương mờ mịt tin tức. Tôi sống trong những tin đồn. Tôi bám vào sự tưởng tượng. Rõ ràng mở mắt, còn ngờ chiêm bao. Một bức màn sắt đã phủ xuống, đầy rẫy hận thù từ hai phía.

Tôi không nghĩ mình có ngày quay lại quê hương.

Tôi nhớ người Việt, thèm món ăn Việt, thèm nói tiếng Việt. Một người bạn cũ, từ tiểu bang khác, về sống ở nam Cali vài tháng trước, viết thư: “về đây ấm áp, nhiều việc làm, nhiều người Việt, có quán ăn Việt, gần Saigon nhất, lại có thể tán gái bằng tiếng mẹ đẻ, thích vô cùng”.

Tôi hay cả tin, lại thích chiều bạn. Thế là vài ngày sau tôi đã có mặt ở Orange County.

Nơi sau này mọi người gọi thân mật một cách Việt hóa là quận Cam, lúc đó, chắc đã tập họp khoảng hơn chục ngàn người gốc Việt, nhà cửa còn rẻ, đất đai còn rộng, còn đầy những vườn bắp, vườn cam, vườn dâu. Bắt đầu đã có quán cà phê Việt, quán ăn Việt. Việt 100%, không cần đặt tên Mỹ.

Cho tới khoảng cuối tháng 11-1975, chương trình định cư hơn 130 ngàn người Việt hoàn tất. Nhưng, kinh nghiệm với người tị nạn Cuba tập trung hầu hết ở Florida, chính quyền Mỹ đã phân tán người Việt sống trên đủ 50 tiểu bang nước Mỹ. Những người trẻ, độc thân, không nghề nghiệp, không quen biết ai ở nước mới này, bị đưa đi những nơi xa nhất. Tôi được đi đến Fargo, một thành phố chưa từng nghe nói tới. Vừa xuống mấy ngày, chung quanh đã toàn tuyết. Thế là, sáng mai thức dậy, như đang sống ở Tây Bá Lợi Á. Đi làm hoặc ở nhà, vẫn như một thằng câm. Chỉ xem lịch, xem giờ và xem nhiệt độ hàn thử biểu. Tôi chỉ trụ được ở đó lúc hết mùa tuyết.

Tôi đi thẳng về phía Tây. Không hề có ý định quay lại chỗ này. Như “phía tây mặt trời”, một câu truyện mà nhà văn Murakami kể lại về một người nông dân Nga, sống giữa những cánh đồng tuyết Seberia, một hôm nào đó bỗng dưng bỏ hết đi bộ thẳng về phía tây rồi biến mất mà tôi đã đọc sau này. Tôi chỉ khác, tôi biết chỗ đến là Thái Bình Dương. Tôi cũng hơn anh nông dân Nga kia là tôi đi bằng xe 4 bánh.

Ở nam Calilfornia, tôi gặp lại một số bạn cũ, và quen thêm nhiều bạn mới.

Nhờ giới thiệu của Hoàng Quốc Bảo, tôi tới share một phòng (bây giờ trong nước gọi là ghép phòng), trong căn hộ của nhà thơ Du Tử Lê. Lúc đó Du Tử Lê vừa đi làm kiếm sống, vừa có cô vợ trẻ và một cậu con trai nhỏ mới sinh, vừa làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Quê Hương, khổ cỡ tuần báo Time, vài chục trang, trong đó có đủ thơ văn tin tức bình luận. Rất bận rộn.

Tòa soạn cũng ở căn hộ nhỏ, 2 phòng. Bàn đánh máy cũng là bàn ăn. Tạp chí nghe xôm tụ như vậy, nhưng thực ra chỉ có một mình Du Tử Lê bao thầu từ A đến Z. Lê rủ tôi vào làm báo chung cho tiện, trước mua vui, sau là việc… nghĩa. Tôi không hề học trường báo chí, chưa từng viết được một câu văn. Nhưng ngoài giờ đi làm, rất rảnh, nên tôi giúp một tay. Lúc ấy cả tòa soạn chỉ có một cái máy chữ cũ của hãng IBM, đánh bài xong, chữ không có dấu, phải tự dùng bút bỏ từng dấu chấm phẩy hỏi ngã. Sau đó cắt dán, cho vừa vặn khổ báo, rồi đem tới nhà in. Tôi đặt đại một cái tên hiệu mình là Lê Tôn (dựa vào họ tên cha mẹ), chức Thư ký tòa soạn. Tôi còn làm thêm việc bỏ báo bán ngoài chợ, quán cà phê, gởi bưu điện cho các độc giả ở xa. Tôi không có kinh nghiệm sống dưới khẩu hiệu “mỗi người làm việc bằng hai”, nhưng ở giai đoạn này, mỗi ngày của tôi có hơn 24 tiếng.

Bài vở gởi đến nhiều, dĩ nhiên đăng không xuể. Tôi không có quyền động đến bài vở, nhưng cũng có đọc bên lề. Tôi không nhớ lý do đột biến nào, thời điểm này, tôi làm thơ. Du Tử Lê đã đồng ý đăng ngay. Nóng hổi. Tôi tiếp tục làm thêm một số thơ nữa. Chắc khoảng 6 bài.

Vài tháng sau, nhà xuất bản Quê Hương đã in một tuyển tập thơ Việt Nam, trong đó có 4 người là Trần Mộng Tú, Thục Ngạn (vợ Du Tử Lê lúc đó), Du Tử Lê và tôi. Tất cả bài trong tập đều được dịch ra tiếng Mỹ, và bán (hoặc tặng) hết ngay, nhan đề “Quê Hương và Lưu Đày”. Tôi không còn giữ được một ấn bản nào. Và, cũng không nhớ mình đã viết thứ gì trong đó.

So với những cộng đồng Á Châu khác ở Mỹ, cộng đồng Việt Nam có một đặc điểm nổi bật là một cộng đồng chính trị. Họ đến đây bằng cách vượt biên. Họ được tiếp nhận như những người tị nạn chính trị. Vừa nhục nhã, vừa uất hận, nhưng khi tới Mỹ, họ có ngay một kho tàng vô báu: tự do.  Họ đã xử dụng tối đa quyền tự do ở xứ sở mới này.  

Thế là hiện tượng báo bằng Việt ngữ ra đời ồ ạt. Nếu bạn có tiền, có sức lao động cứ ra báo, không cần xin phép, không lo kiểm duyệt, không sợ tuyên giáo. Bạn có thể tốn tiền, tốn công, đôi khi rất tốn, vì viết lách và làm báo, chứ không bao giờ bị bỏ tù vì những chuyện này.

Sau vài tháng ở đây, tôi đã thu thập được khoảng 100 tờ báo khác nhau bằng tiếng Việt, từ Pháp, Đức, từ Texas, Washington DC,  tới Washsington State, nhưng đa số vẫn tập trung ở California. Có tờ chỉ vỏn vẹn 2 trang. Có tờ chỉ in bằng máy photocopy. Có tờ vừa chữ đánh máy, vừa chữ viết tay. Ít tờ nào dày hơn vài chục trang. Đa số nhếch nhác, cẩu thả, cả hình thức lẫn nội dung. Và hầu như chỉ là báo biếu. Chỉ có vài người có nghề sẵn từ miền Nam qua như ký giả Việt Định Phương (báo Trắng Đen), hoặc Nguyễn Hoàng Đoan (tạp chí Hồn Việt)  qua đây làm báo.

Còn lại đều là tay ngang. Hoặc như tôi, thợ vịn.

Mỗi người Việt Nam tị nạn khi mới tới đều là một tờ báo. Nếu không làm báo giấy, họ có thể là báo nói.

Tôi quen Hoàng Khởi Phong vào thời điểm đó, một người tôi từng nghe tiếng từ trước 1975 là một tay giang hồ. Khi có quyền lực, anh bao che và thông cảm với những người bụi đời, nghệ sĩ, thất thế. Phong cũng trải qua một mùa đông trên tiểu bang Maine.

Anh từng sinh hoạt văn nghệ trước 1975, và đã có 2 tập thơ xuất bản ở Việt Nam trước đây. Anh quen biết rộng trong giới văn nghệ. Tôi chơi thân với Phong từ ấy.

1976, nước Mỹ rầm rộ tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày dành độc lập, Hoàng Khởi Phong  có làm một bài thơ tự do, nhan đề “Chào Mừng 200 Năm Độc Lập Nước Mỹ”.

Anh đã đọc bài thơ này trong một đêm thơ nhạc cho người Việt trong vùng. Miễn phí. Rạp chật kín người. Tôi nghĩ cả ngàn khán thính giả, nếu tính cả người già, em bé. Giọng anh vang, ấm, uy lực:

“cái bóng của Abraham Lincoln vẫn còn nghiêng xuống thế kỷ này…”

Tôi nhớ và chỉ nhớ câu thơ này. Hình như, chúng tôi đã cảm giác được màu da, văn hóa, ngôn ngữ lạc lõng của mình. Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ, Abraham Lincoln, chiến thắng trong trận nội chiến bắc nam, bãi bỏ chế độ nô lệ, mở đường cho những đấu tranh đòi tự do bình đẳng của người da đen tiếp đó, đã tạo sự dễ dàng hơn cho những người da màu khác đến sau như chúng tôi. Tôi vẫn nhớ và nghiêng mình trước những người da đen như Martin Luther King Jr., Rosa Park… Và riêng với người vừa chứng kiến chiến tranh Việt Nam kết thúc bằng mắt thường, tôi càng ngưỡng mộ Abraham Lincoln, với bài diễn văn của ông đọc tại Gettysburg, một trận đánh đẫm máu, chết và bị thương khoảng 50 ngàn người, và cũng là nơi trở thành nghĩa trang chôn chung cả lính hai miền nam bắc. Bài diễn văn ngắn, tôi nghĩ là một bài diễn văn hay nhất mà tôi biết được, dài 272 chữ, đọc khoảng 3 phút. Không hiểu sao mấy năm sau, tôi đã học thuộc.

Cho đến hôm nay, tôi chưa hề có một đồng lương hoặc nhuận bút nào qua việc làm báo hoặc làm thơ. Tôi không thấy đó là điều dại dột. Và cũng không thấy đó là điều hy sinh, mất mát.

Tôi không nghĩ thơ cứu vãn thế giới, cứu vãn tôi hoặc bất cứ ai. Nhưng, hình như, gần 50 năm qua, nếu bảo quay lại từ đầu, một điều tôi biết, tôi biết hầu như chắc chắn, là tôi vẫn làm thơ.

Lê An Thế

Saigon 8-2025

Ý kiến bạn đọc
30/08/202504:28:36
Khách
Đọc mà tưởng như đang coi phim tài liệu pha chút lãng mạn. Viết duyên quá, cuốn người ta đi luôn Một lát cắt đời mà đọc xong thấy vừa thương vừa nể. Thơm mùi thời gian 🍂”
Chữ nghĩa nhẹ tênh mà đọng lại nặng ký. Hay đến mức muốn đọc lại lần hai .Tự sự mà duyên, hoài niệm mà tươi.
Có khi ký ức của một người lại thành tài sản tinh thần của cả một thế hệ. Hay quá!
27/08/202504:47:07
Khách
Cảm ơn anh đã chia sẻ. Anh viết thật lôi cuốn, đọc mà lòng bùi ngùi quá chừng, tưởng như đang xem lại khúc phim tài liệu của những người tỵ nạn ngờ nghệch ngơ ngác, buồn vui lẫn lộn của... thế kỷ trước.
Xưa, chúng ta đã không còn quê hương và nay, có "quê hương" nhưng sao "quê hương" giờ cũng thành lạ hoắc...
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.