Hôm nay,  

Trăng Mùa Gặt Hái

27/08/202515:35:00(Xem: 1676)
nguyetcam01
Nguyệt Cầm - Đinh Trường Chinh

 

Năm ấy cô mười tám tuổi, tốt nghiệp trung học, vừa thi xong kỳ thi tuyển vào trường cao đẳng. Cô mới đến Canada năm năm, từ trại tị nạn. Cô đến trường ban ngày, đêm làm việc ở McDonald’s, đôi khi tiệm ăn khác. Cuối tuần đi lau dọn nhà cho cô giáo chủ nhiệm kiếm thêm tiền. Cô buồn ngủ suốt ngày. Những khi không đến trường, không làm việc, cô ngủ bù trong cái phòng nhỏ của mình, dưới hầm, chật chội, ẩm, tối. Cửa sổ phòng cô nằm ngang mặt đất, nhìn ra thấy bụi cỏ xanh tốt, đôi khi một con dế dương râu nhìn cô chằm chặp. Nhưng cô nằm mơ những giấc mơ đẹp, ngoài cửa sổ hoa lê trắng, hoa lựu đỏ, hoa anh đào hồng mọc lấm tấm. Cô thức dậy khi nghe tiếng chuột chạy. Nhà vắng, cô lục thức ăn nguội trong bếp, ngồi ăn một mình, xong thu dọn hành lý vào cái ba lô, kiểu người ta đi hiking. Cô gặp ba cô ở cửa, ông vừa đi làm về. Đi đâu, con gái Suzanne? Con đi chơi với chúng bạn. Cô nói dối. Cô rất sợ ba cô, một người đàn ông hiền hậu nhưng nóng tính, sáu năm trong trại cải tạo biến ông thành một người khác, ít nói, rầu rĩ, cáu gắt, hung bạo. Ông cấm cô có bạn trai quá sớm, cấm đi chơi về khuya. Cô không bao giờ dám tâm sự với ông. Cô sẽ đi về Sakatoon bằng chuyến xe buýt đường dài, sẽ ở lại ba hay bốn đêm ở đó, trong nhà một đứa bạn gái. Để làm gì? Cô không biết. Cô có một giấc mộng: một kế hoạch làm giàu. Cô muốn các em cô được ở nhà sang trọng, mẹ cô không phải đi làm trong hãng may với hai bàn tay đau nhức, lẩy bẩy, tối nào cũng bắt cô xoa bóp. Trong khi ở đây mùa hè, chim chóc hót líu lo, thì ở phía bắc Saskatchewan, trời trở lạnh. Chuyến xe buýt chạy đơn độc trên đường, về chiều tuyết bỗng xuống mịt mù, cô nhìn thấy trên ngọn đồi, dưới thung lũng, những con chó sói đầu tiên trong đời. Những con báo hoa. Mèo rừng. Những con coyotes. Những cánh đồng lúa mì đã gặt, đồng cỏ “hay” trồng cho ngựa ăn, loại cỏ cuộn thành bó tròn lăn trên mặt đất lấm tấm hạt tuyết trắng như hoa cúc. Liệu cô có thi hỏng kỳ thi vừa qua không.

Cô không biết. Cô học kém môn toán, sinh vật, khoa học, tiếng Pháp, tóm lại môn nào cô cũng lơ mơ vì vào học ngang giữa chừng, không hề chuẩn bị, sau mấy năm bỏ học trong trại tị nạn, từ năm chín tuổi. Trong khi tụi bạn có đủ thức ăn, quần áo, nghỉ ngơi, giải trí, sự hướng dẫn, anh trai, xe đưa đón, thì cô không có gì cả. Cô đi xe buýt mỗi ngày mất hai giờ từ nhà đến trường, trường về nhà. Không có đủ sách vở. Không có giờ để ngủ. Người ốm yếu. Nhưng giọng nói của cô trong veo như nước suối trong bình pha lê đặt ngay ngắn giữa bàn trong nhà cô giáo chủ nhiệm. Đi học trong mùa đông lạnh giá cô chỉ có một cái áo khoác mỏng màu xám, ngồi trong lớp cũng mặc y vậy. Cô giáo bảo: Suzanne, em làm sao thế, cởi áo ngoài ra chứ. Nhưng cô không cởi được, vì quá lạnh. Cha mẹ cô là người tị nạn, nhưng không nhận tiền trợ cấp chính phủ, cặm cụi đi làm ngay từ khi đến xứ sở mới, để dành ki cóp gởi về Việt Nam, các em còn nhỏ, đứa nhỏ nhất bảy tuổi, đứa lớn mười ba, ba đứa con trai, không giúp được việc gì, cô phải làm thêm để phụ mẹ. Cô không nghĩ rằng cô sẽ thành công bằng đường học vấn, nhưng cô tin cô sẽ thành công một cách nào đó, ngày mai, hay tháng sau, hay năm sau. Cô sẽ kết thúc lớp mười hai, nhận bằng tốt nghiệp. Cô đã để dành đủ tiền may bộ quần áo mặc trong lễ ra trường. Tháng trước ba cô dẫn đi chụp một tấm hình thật đẹp, mang áo choàng, mũ, khăn, một thiếu nữ xinh xắn như thể vừa tốt nghiệp từ một trường danh tiếng, Harvard hay Yale chẳng hạn. Khi đi học cô chỉ vừa đủ điểm để thi đỗ các môn. Cô mơ ước làm y tá nhưng biết không đủ sức, cô sẽ cố gắng vào học một trường cao đẳng cộng đồng, rồi sẽ bỏ học giữa chừng vì đuối sức trước khi bị đuổi học, sẽ ghi danh học một lớp đánh máy, sẽ xin làm một chân thư ký ở các văn phòng địa ốc hay luật sư, và để đủ tiền sinh hoạt, cô sẽ đi làm thêm buổi tối ở tiệm McDonald’s nhiều năm nữa, nơi cô được chủ tin tưởng, sẽ làm thêm giờ với lương tối thiểu nhưng cô sẽ bỏ việc ở một tiệm ăn khác, vì chỗ đó quá xa, và người quản lý, một anh chàng Á châu đứng tuổi, giọng nói ngọt ngào, thích đề nghị chở cô về nhà buổi tối, thỉnh thoảng cho cô những món quà nhỏ, làm cô thấy ngại. Trước khi nghỉ ở , cô cần phải xem thử người ta có chịu tăng giờ ở McDonald’s không đã. Tiền thuê nhà đang lên tháng này, nhà sáu miệng ăn trong đó ba đứa trẻ, ba người lớn, ở một tầng hầm basement ẩm thấp, mẹ cô kêu đau nhức ở đầu gối, bây giờ đã lan ra cả khuỷu tay, bàn tay. Buổi tối bà kêu cô xức dầu nóng ở những khớp xương đau nhức. Cô cầm bàn tay của mẹ lên, bà mới năm mươi tuổi mà những khớp xương thứ nhất ở hai bàn tay của bà sưng lên và cong lại như móng vuốt của loài chim sắp tuyệt chủng. Cô thương mẹ, muốn làm nhiều giờ hơn.

Nhưng cuộc đời của cô còn ở phía trước. Tình yêu đối với cuộc sống và sự mơ mộng không hề phân biệt người giàu và kẻ nghèo, người tị nạn và dân bản xứ, học sinh giỏi và bọn học dốt như cô. Cô sẽ để dành tiền và thuê một căn phòng cao ráo sáng sủa, vì ở tầng hầm mẹ cô ngày càng đau khớp. Cô sẽ mua bảo hiểm nhân thọ, loại rẻ nhất, và nếu dư dả hơn cô sẽ giúp mẹ mua bảo hiểm giáo dục cho các em. Rồi cô sẽ chơi stocks, đó là những năm mà chứng khoán đang lên trên thị trường, ai cũng phát điên phát rồ vì tiền và lời hứa hẹn của nó. Rồi cô sẽ thắng vài vụ, thắng nữa, giàu lên nữa trong một đêm, và trong khi chưa kịp ăn mừng, cô sẽ mất sạch sau một đêm, như tất cả những người khác. Nhưng cô không tự tử.

Bây giờ thì cô đang ngồi trên xe buýt, hàng ghế sau cùng, ấm áp, dễ chịu, nghĩ đến tương lai trong khi ngoài trời tuyết rơi như múa, bầy quạ đậu đen cả một nhành cây, những con chó sói hú gào trên ngọn đồi giữa những cánh đồng phía bắc của tỉnh Sakatchewan còn thơm mùi lúa mì mới gặt xong. Cô ngủ gật. Giấc mơ nào cũng dẫn người ta đi rất xa.

Cô thức dậy, bàng hoàng mở mắt thấy mọi người trên xe đang xếp hàng ra cửa gần hết. Xe đang dừng trên bến xe. Cô hoảng hốt lao xuống, cúi người kéo cái ba lô nặng trĩu của mình từ gầm xe. Xe vẫn nổ máy rì rầm làm cô nóng cả ruột. Cô nhìn quanh, thở phào nhẹ nhõm. Khi xe đã chạy, khi những người hành khách đã tản đi mọi nơi, cô tò mò đứng nhìn những tấm bảng chỉ đường, ngơ ngác. Cô tiến lại một người đang đứng chờ xe buýt ở phía bên kia đường. Người đàn bà da trắng mập mạp, vẻ mặt cáu kỉnh, chắc có điều gì buồn bực kiểu như vừa cãi nhau với bạn trai, bạn có thể đoán được. Bà ta khẳng định với cô rằng cô đã lo sợ đúng, tức là cái chỗ cô định xuống kia không phải ở đây. Quá sớm, bà ta bảo thế. Cô xuống xe quá sớm, chưa vào đến trạm xe buýt trong thành phố mà cô cần đến. Từ đây đến đó bao xa? Ba giờ lái xe. Cô kinh hãi.

Ba giờ. Cô nhìn trời bầu trời xám, tuyết mỏng đã ngừng rơi nhưng mây bay qua lớp lớp, mây màu bạc, mây màu chì, cuồn cuộn như sóng, như nỗi lo âu của kẻ xa nhà. Cô ra đường, đứng sát lề để cho người lái xe dễ thấy, ngoắc tay lia lịa, cô vẫn thấy những cô gái chàng trai làm thế trên đường cao tốc. Cái bà lúc nãy, hóa ra là người tử tế, đi ngang qua, ghé tới gần cô, bảo cô muốn đón xe quá giang phải không, vậy thì phải đi ra chỗ kia kìa, cạnh đường cao tốc, trong này là đường hẻm ai mà đón, hở cái con bé nhóc tì. Cô nhớ ra, cám ơn rối rít. Xốc cái ba lô trên vai chạy về phía đường lớn có những đoàn xe đang chạy. Cô vẫy mỏi cả tay không xe nào dừng lại. Con người ngày càng bớt tử tế, cô ngẫm nghĩ, nhớ lại rằng mới cách đây dăm năm khi mới đến, cô thấy người ta đón xe dễ dàng trên đường, thế mà nay cô đứng cả tiếng đồng hồ không người nào ngó tới. Chỗ cô đứng ngay ở vòng cua gấp, xe chạy nhanh, ít người chịu khó dừng lại. Cô sẽ thất bại một lần nữa, như đã từng thất bại trong môn toán, môn hóa học, môn sinh vật, tiếng Pháp, và tiếng Anh.

Thế rồi anh đến. Trong chiếc xe Honda Prestige cũ, màu đỏ hai cửa, kiểu thể thao, hai ngọn đèn trước có cái chụp như cái mũ, khi bạn bật đèn thì nó mở ra khi bạn tắt đèn thì nó sập lại, tuy vậy đôi khi nó làm ngược lại, bạn bật đèn mà đường tối thui. Anh thắng gấp, vì nhìn thấy cô muộn, bánh xe trước siết lên mặt lộ, kêu két. Xe anh đỗ sát lề đường, các xe tải lớn chạy qua vun vút thổi rát cả mặt. Anh mở cửa. Khi cô lí nhí cám ơn thì anh không trả lời, chỉ khẽ gật đầu. Cô thấy anh có vẻ đáng ghét, khinh người, lạnh lẽo. Thực ra anh đang mải nhìn đường, lúc ấy đã tối, xe tải chạy gấp quá, rầm rập, nguy hiểm, phải một lúc sau anh mới ra được, hòa vào dòng xe cộ. Cô ngồi im thin thít, cái túi xách như ba lô kẹp giữa hai đùi, lòng lo lắng đủ thứ. Cô không nhìn mặt anh, chỉ đoán đó là một chàng trai lớn hơn cô rất nhiều tuổi, mười hoặc mười lăm tuổi, tức là ngoài ba mươi, mặt rắn rỏi, cái nhìn buồn buồn. Người cao nhỏng, mặc chiếc áo khoác ngắn, loại không thấm nước. Anh mở nhạc. Lần đầu tiên sau nhiều năm cô nghe lại một băng nhạc cũ. Tiếng người ca sĩ ngân nga trong khoảng không gian mờ tối, hẹp, ấm, của chiếc xe nhỏ. Anh có lẽ là người thích nghe nhạc, nhịp tay nhè nhẹ lên vô lăng. Anh huýt sáo theo bản nhạc.

Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở. Anh nhớ lại số tiền mặt trong túi. Một lúc sau anh đổi ý, gợi chuyện. Họ chuyện trò về mọi thứ. Anh học đại học bỏ ngang giữa chừng vì chuyện cá nhân. Chắc lại chuyện thất tình, cô nghĩ, không nói ra, tự cười trong lòng. Anh bỏ học từ Edmonton về đây làm việc trong một nhà máy, đã mấy năm. Có thể anh sẽ đi học trở lại. Trước khi cô xuống xe, anh tự xưng tên mình và kịp hỏi tên cô. Cô mỉm cười không nhắc lại cái tên ấy của anh, nhưng cô ghi nhớ. Anh muốn học làm kỹ sư nông nghiệp. Saskatoon là một trung tâm nông nghiệp. Cô vừa thi xong kỳ tốt nghiệp trung học. Anh đưa cho cô một thỏi kẹo sô cô la, có lẽ còn sót lại duy nhất trong cái túi vải sau khi anh lục lọi hồi lâu. Thời ấy xe hơi còn xài băng cát xét. Anh vừa lái xe vừa nhờ cô tìm cho anh một bài hát mà anh muốn nghe. Cô tìm được bài hát ấy, họ cùng nghe. Cô kể, vừa đi học đi làm, có ba đứa em trai nhỏ nghịch ngợm. Cái phòng ngủ của cô có con dế ngoài cửa. Đó là tất cả những gì họ trao đổi với nhau.

Đột nhiên cô cảm thấy cô yêu anh.

Không, không phải cô cảm thấy thế. Không phải cô nghĩ thế. Mà cô quyết định thế.

Khi người ta còn trẻ, ai cần lý do? Cô chưa từng hỏi anh có vợ chưa. Cô chưa từng hỏi anh bao nhiêu tuổi, tương lai của anh ra sao, anh đã từng theo học trung học ở đây như cô chưa, anh có chơi stocks không. Cô chưa từng hỏi anh có thi hỏng như cô không. Cô chưa từng hỏi anh sẽ thành công hay sẽ thất bại. Ngoài trời tuyết đã tạnh, trên mặt đường vẫn còn những vũng nước đang tan. Anh dừng lại bên đường đổ xăng. Cô đứng từ xa nhìn anh. Cô nhìn bàn tay thanh mảnh của anh cầm cái vòi đổ xăng. Nhìn cái dáng anh từ phía sau lưng. Cái dáng nhanh nhẹn nhưng buồn rầu, tội nghiệp, cô độc. Cô biết anh là người thông minh, nhưng bướng bỉnh, không phải loại người hay gặp được may mắn. Anh vào bên trong tính tiền, khi bước ra, tới gần xe, sắp mở cửa, anh đứng sững lại, nhìn lên trời. Thấy cô ngạc nhiên, anh chỉ tay cho cô nhìn theo. Trăng lên. Sau những đợt mưa tuyết ngắn rơi bất chợt, rồi dừng ngay, bầu trời trong và ấm trở lại. Mùa gặt hái sắp bắt đầu. Mùa dâu, strawberries, mùa lê, táo, nho. Trăng tròn, sáng rực, màu vàng đậm ngả sang đỏ, như màu mận chín, màu kinh nguyệt, màu giấc mơ, nằm ngay trên đỉnh núi. Anh bảo cô, ở đây vùng đồng cỏ người ta gọi trăng rằm mùa này là harvest moon, từ tháng tám đến tháng mười, nghĩa là trăng mùa gặt hái.

Bây giờ cô đứng đó. Không phải trạm đổ xăng. Trên một bãi đậu xe rộng rãi, tấp nập, vây quanh là shopping malls, trong ánh điện sáng. Cô đứng sững lại vì nhìn thấy anh. Cô nhìn thấy cái má của anh hóp vào, nơi ngày trước hình như là lúm đồng tiền, mái tóc điểm bạc, chiếc cổ cao, gầy, mặc một cái áo khoác xám, kiểu xưa. Cô thấy anh đang đi tới. Khuôn mặt anh đã già đi nhiều, đã khác đi nhiều, nếu đó chính là anh. Má bên phải có sợi râu dài. Cô ngờ ngợ, không tin vào mắt mình. Cho đến khi anh mỉm cười nhìn thẳng vào mắt cô. Thì cô biết.

Cô tưởng anh nhận ra cô, nhưng không phải, anh mỉm cười với một người nào đó phía sau lưng cô, anh đi lướt qua, rõ ràng không chú ý đến cô. Ngày trước cũng vậy, sau khi lên xe phải nhiều phút sau, khi xe cộ vắng trên đường, anh mới thong thả liếc nhìn cô, không phải liếc nhìn, mà cái nhìn chăm chú, rõ ràng. Tôi đang nhìn cô. Anh muốn nói thế, hay cô nghĩ thế. Bỗng người đàn ông quay lại. Suzanne. Anh ta reo lên. Tim đập rộn ràng, cô cố trấn tĩnh, từ từ quay lại. Nước mắt cô ứa ra.

Tất nhiên đó chỉ là sự tưởng tượng của cô. Anh không reo lên như vậy. Anh chưa bao giờ reo lên như vậy với cô. Trong đêm đầu tiên ngủ chung phòng với đứa bạn ở Saskatoon, họ quen thân nhau từ khi còn ở trại tị nạn, cô kể lại câu chuyện hồi chiều, cố tỏ ra tình cờ, không quá hào hứng. Cô bạn vừa ngáp vừa nghe chuyện, ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo: Ở đây ai cũng thế. Có lẽ cô ta muốn nói ai cũng sẵn sàng làm cái việc tử tế bình thường như thế cả, hay có ý gì khác nữa thì cô không biết. Cô muốn cãi lại rằng tử tế và tình yêu là hai thứ khác nhau, nhưng cô im lặng, quấn cái chăn chặt, cố dỗ giấc ngủ. Lúc này đây trên đầu cô, như sau một mùa đông dài, bầu trời sáng lên trước khi tối hẳn. Phía đường chân trời, cô nhìn thấy mặt trăng, từ từ sáng lên, tròn, to, đỏ sẫm. Vầng trăng gặt hái. Hay là vầng trăng ấy không có thực? Vì nó đỏ quá, sẫm quá, như một giấc mơ. Vì vậy nếu người đàn ông ấy quay lại và hỏi: Xin lỗi, tên cô là gì? Cô sẽ im lặng.

Cô đã từng im lặng khi thi hỏng kỳ thi vào cao đẳng ấy. Cô đã từng im lặng khi ba cô chặn cô ở cửa tát một cái như trời giáng và hỏi: Mày đi đâu trong ba ngày qua, đồ con gái hư? Cô sẽ im lặng như khi người quản lý nhà hàng yêu cầu cô ở lại làm thêm giờ đến nửa đêm, nhưng không trả tiền lương overtime cho cô. Hắn chưa bao giờ trả. Cô đã từng im lặng khi mất sạch tiền trong savings account vào trò chơi chứng khoán năm cô mười chín tuổi, với hy vọng sớm có tiền thuê một căn gác sạch sẽ hơn là tầng hầm basement nhìn ra bụi cỏ cao có con dế vuốt râu trầm tư.

Bây giờ, nếu anh quay lại, cô tưởng tượng thế, và hỏi:

Xin lỗi, có phải cô tên là Suzanne không?

Không. Cô sẽ trả lời người ấy. Xin lỗi, tôi không phải là Suzanne.


Nguyễn Đức Tùng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.