Hôm nay,  

Mấy Cây Bông Súng Sau Vườn

24/06/202214:11:00(Xem: 3608)

Tạp bút


bongsung

Sáng sớm nhận được cái text của thư viện Newport Beach, nhắc là ba cuốn sách đã đáo hạn mấy hôm. Mới đó mà đã hơn ba tuần rồi.  “Ở” đâu, làm gì, sống thế nào trong hơn ba tuần qua? với vốn thời gian mà như một người bạn đã mất thường nói “như dàng mà nhiều người không biết quý”. Ba tuần qua, làm gì để đời mình thêm hương sắc, để sống tỉnh thức hơn, hay cũng chỉ một ngày như mọi ngày (TCS), sống qua ngày để chờ ngày chết (VL)... Có được như những cây bông súng trong hồ ở sau nhà? dù cằn cỗi, nằm lẫn trong đám bùn suốt cả mùa đông tưởng đã chết, thế mà khi nắng ấm tới lại mọc thêm lá mới, ra hoa… 


Vào website của thư viện xin gia hạn thêm ba tuần vì chưa đọc hết một phần ba cuốn nào. Chắc phải gia hạn thêm vài ba lần nữa họa may. Chưa kể cuốn sách người bạn giao cho đọc để “báo cáo” lại vì anh bận đi xa. Cuốn Because Our Fathers Lied của ông Craig McNamara, người con trai duy nhất của ông Robert McNamara. Ông nầy quen thân với người bạn, gởi cho người bạn cuốn sách nầy để đọc trước vì tới mấy tháng nữa mới xuất bản. Nói với người bạn là cuốn sách nầy không thể là NY Times Bestseller nhưng có nhiều chi tiết thú vị, qua cái nhìn của một người con từ lúc còn vị thành niên về cha mình. Lẫy lừng, tài ba… nhưng cũng vẫn là con người với đầy dẫy những khiếm khuyết lỗi lầm. Không ba đầu sáu tay, không đi trên mặt nước, đêm ngủ nghiến răng vì quá nhiều lo âu, áp lực, phải để cái nightguard trên đầu giường để mang vào mỗi tối cho bớt mòn răng. Ông McNamara con luôn chất vấn ông McNamara cha tại sao biết chiến tranh Việt Nam không thể thắng mà không có can đảm nhìn nhận, tìm lối thoát, mà vẫn tiếp tục gây bao cảnh tang thương, đạo đức con người để ở đâu… thì ông McNamara cha cứ đánh trống lảng, hỏi vụ mùa nầy có khá không, thu hoạch được bao nhiêu tấn, vì ông không theo cha làm chính trị mà canh tác, làm “vườn” ở miền Bắc California. 


*


Năm nay vùng nầy lạnh dai dẳng, nhưng mấy tuần vừa rồi đã có nắng ấm, vì thế mà mấy cây bông súng trong hồ đã ra lá, choán hơn nửa mặt hồ. Cây màu tím đã có một cái bông nở hằng ngày tới lúc xế chiều, nhưng những cây kia, vàng, trắng, hồng… chỉ ra mấy cái búp nhỏ, còn nằm dưới mặt nước, phải nhìn kỹ mới thấy. Có mấy chậu đã già hơn ba mươi năm. Vài năm sau khi mua về đã bắt đầu èo uột, hoa chẳng có mà lá cũng không, chỉ còn cái rễ nằm khuất dưới đáy hồ. Rồi có ai đó bày phải bón phân cho nó hằng năm nên làm theo. Chỉ vài viên fertilizer nhét sâu trong chậu mà những cây bông súng tưởng đã chết bỗng hồi sinh. Lá xanh ngắt phủ mặt hồ, hoa nở mạnh khỏe tươi thắm mỗi năm.  


Những cây bông súng trong hồ tưởng có nước, có bùn là đủ dinh dưỡng, sẽ mãi tươi tốt để tiếp tục ra lá ra hoa, mà không, cần thêm những viên fertilizer hằng năm để đâm chồi, nẩy lộc. Những cây bông súng mà còn như thế thì con người có khác chi, cũng cần “phân bón”, vun đắp, bồi dưỡng thân xác và trí tuệ, để cuộc đời tiếp tục đâm chồi, nẩy lộc, ra hoa.  

 


Ba tuần trước xin một ngày nghỉ. Sáng sớm ra biển, cũng chỉ chừng đó chuyện. Nhìn trời xanh mây trắng, nghe tiếng sóng biển, thở cái không khí buổi sáng rất sớm có mùi mặn mặn của nước biển. Thăm mấy đàn chim con tranh nhau tìm mồi trên bãi cát mịn đã lâu rồi không gặp. Đi lên pier chào hỏi mấy người quen ra đây câu cá từ lúc chưa hừng sáng rồi tiếp tục đi quanh chờ giờ thư viện mở cửa.


Ở thư viện ra, ghé đón người bạn mới quen đi ăn trưa như đã hẹn, để nghe anh nói thêm về những tấm hình anh chụp ở Việt-Nam và những bài viết đăng trong website của anh mà mấy tuần trước khi gặp anh vừa từ Việt-Nam về không nghe đủ, phần vì đông người, phần vì thì giờ hạn hẹp.


Anh nầy là photographer chuyên nghiệp làm việc nhiều năm ở Việt-Nam nên đi nhiều, thấy nhiều. Trong thời gian Covid, không có công ty du-lịch nào còn hoạt động để mướn anh vì thế mà anh không thể gia hạn visa, phải ra khỏi Việt-Nam sau hai năm dạy Anh-văn cho con cái đại gia kiếm sống.  


Không được coi những tấm hình của anh mà Air France dùng để quảng cáo, nhưng những tấm hình anh chụp ở Việt-Nam cho coi sáng nay vô cùng sinh động. Qua cảm xúc và cái nhìn của một người nghệ sĩ, anh thấy cái đẹp của những vật quanh đây không ai để mắt tới, những sinh hoạt đời thường không mấy ai quan tâm. Không có hình chân dài chân ngắn, xe “xịn”, nhà sang mà là hình mấy chiếc đòn nhựa đủ màu ở một quán cà-phê bên vỉa hè, mấy đứa bé chạy đuổi nhau trên đường rầy xe lửa xuyên qua xóm nhà lao động tù túng rách nát, một người bán hàng rong, vài người tụ tập quanh một sạp hàng bán máy ảnh cũ. Và bằng tài năng nhiếp ảnh, anh ghi lại được trên phim, biến chúng thành những tác phẩm nghệ thuật để chia xẻ. Rồi những bài viết kèm theo của anh, không cho người đọc tin tức gì về khách sạn mấy sao, buffet mấy món mà cái nhìn tinh tế, những nhận xét sắc sảo đượm tính văn hoá đặc thù của những nơi anh đi qua và ghi lại trên phim.


Gần ba giờ trong góc một tiệm bánh mì Mỹ vắng vẻ, học không biết bao nhiêu điều quý báu: photography, cameras, lighting, thế nào là một tấm chân dung đẹp, sensitivity nằm ở đâu… nhưng quý báu hơn là “thấy” và thương đất nước mình hơn. Nói với anh hy vọng sẽ có ngày xách máy ảnh theo anh đi cùng khắp Việt-Nam, cố gắng tìm kiếm để, nói như nhà văn Võ Hồng, thấy được cái nhỏ nhất chưa ai thấy, nghe được cái nhẹ nhất chưa ai nghe…Mà có đáng buồn không, một người Việt-Nam đang nhờ một người Mỹ chỉ cho thấy cái đẹp của quê hương mình!    


*


COVID-19 nay đã giảm, nhiều người đã trở lại làm việc vì thế mà freeway 55 kẹt cứng, nhiều lúc như một bãi đậu xe. Trước đây ít xe cộ và xe mình là xe điện nên được một cái sticker để chạy trong carpool lane, vì thế chỉ mất hai mươi lăm phút hay nửa giờ là tới sở. Nay thì sticker đã hết hạn, đường lại đông, phải ngồi trên freeway cả giờ mỗi bận. Làm gì để khỏi “phí” hai giờ trong xe trên freeway hai bận mỗi ngày?  


Tình cờ thấy cái video “Đọc truyện đêm khuya” của Đài Tiếng Nói Việt Nam trên Youtube. Nghe ghê quá, nhưng đây là truyện ngắn của những nhà văn chuyên nghiệp sau nầy qua những giọng đọc rất hay, vì thế mà tối nào cũng tải xuống điện thoại vài ba chuyện để nghe ngày hôm sau. Có người mình đã nghe tiếng, đọc nhiều truyện ngắn và cả truyện dài của họ. Có người chưa bao giờ nghe tên. Có truyện rất hay, có truyện dù không hay lắm nhưng viết vững vàng. Mỗi truyện là một mảng sống, một số kiếp của những người mình tưởng chừng như có quen biết, thân cận trong một xã hội đầy những giá trị xung đột gay gắt đang nôn nóng đổi thay. Tương quan bà cháu, vợ chồng, anh em, những tấm lòng, những ước mong ham muốn không bao giờ với tới, những mối tình đứt đoạn khi người thanh niên phải lên đường vào “giải phóng” miền Nam… Chuyện nào cũng buồn, cũng oái ăm, đầy bất trắc. Có phải vì một truyện để cho hay thì phải chuyên chở cảm xúc, mà cảm xúc dễ tạo ra từ buồn phiền. Lời vui khó nói điệu buồn dễ nghe. Có ai không cảm thấy xốn xang, buồn bã, khi nghe Thái Thanh hát “chuyện đôi ta buồn ít hơn vui” trong lúc rõ ràng là vui nhiều hơn buồn. 


Con người rốt lại vừa là sản phẩm vừa là nạn nhân của xã hội mình sống. Nghe mà cảm thông hơn, bớt phân biệt bên nầy bên kia. Nếu mình sinh ra và lớn lên trong môi trường đó, vào lúc đó, thì chắc mình cũng vậy thôi. Sẽ chửi dằn mặt trước những người trong nhà tập thể để đừng có thắc mắc xầm xì viên gạch mình mới đem về ở đâu ra.


Những ngày ít kẹt xe, đến sở rồi mà nghe truyện chưa xong. Gặp những chuyện quá hay cuốn hút mình theo, phải ngồi lại trong xe, hay vào phòng làm việc đóng cửa lại, đeo headphones lên nghe tiếp cho tới khi xong. 


Rồi mất cả tuần nghe ông Vĩnh Lạc nói về nhạc Việt-Nam, giải thích về ngũ cung mà mình chỉ hiểu mù mờ. Ngũ cung Việt-Nam khác với ngũ cung Mông-Cổ và ngũ cung Nhật-Bản thế nào. Một lối đi mới vào cánh rừng đã mở ra nôn nóng khám phá.


Hết “đọc truyện đêm khuya”, ngũ cung, qua nghe Youtube của mấy vị sư Phật giáo giảng về buông bỏ và sống tỉnh thức, rồi Youtube của mấy người minimalist sống tối giản. Nói là “nghe” Youtube không phải chỉ vì lái xe mà còn vì chẳng có gì để coi. Mấy nhà sư thì chỉ có cái áo cà-sa. Nhà của mấy người minimalist thì trống trơn, áo quần chỉ có mấy bộ, lui tới cũng chỉ cái áo T-shirt với cái quần jean…Nhưng nhờ họ mà mình dần dần đổi thay, sống tỉnh thức hơn, nhẹ nhàng hơn…Biết cần phải tu tập nhiều để bớt đi lòng tham muốn sở hữu, vì hiểu được hạnh phúc đích thực không đến từ xe “xịn”, hàng hiệu, thức ăn chất đầy, tủ áo quần không còn có chỗ treo…mà đến từ tâm. Mấy cây bông súng chỉ cần vài viên fertilizer nhét xuống mỗi mùa là ra hoa ra lá. Chôn xuống những viên hột xoàn, sổ đỏ cân từng ký của một bà đại gia nào
đó ở Sài Gòn có t
ội nghiệp cho mấy cây bông súng không?


Sau những chuyến đi GoodwillWorking Wardrobes, tủ áo quần càng ngày càng trống mà không thấy thiếu thốn, còn muốn tiếp tục đi thường xuyên hơn. Nhà sơn lại đã hơn năm nhưng tranh ảnh mình từng trân quý vẫn còn nằm đóng gói trong garage, không còn muốn treo lên mà không thấy những bức tường nay sao trống vắng. Mấy thùng CD nhạc đang nằm chờ tìm chủ mới. Trước đây, thấy ai vào chợ để chỉ mua một trái táo rồi đi ra, rất chướng, nay mình cũng thế.

Tiếc là đã không học và làm những chuyện nầy sớm hơn…


*


Qua New York ở gần nửa tháng. Đã đông đúc người trên đường phố. Những chiếc xe bus hai tầng chở khách du lịch vắng bóng hai năm qua nay đã trở lại. Vẫn còn phải đeo mask trên subway, chợ búa…nhưng không thấy sự lo âu, sợ sệt. Chắc chỉ còn là thói quen thôi. Tiệm ăn, cửa hàng vừa hồi sinh sau nạn dịch nay đối diện với khó khăn mới: không có người làm. Người dọn bàn, tính tiền ở một tiệm ăn gần nhà nói đây không phải là việc của anh nhưng phải làm vì mấy tháng qua anh thuê và huấn luyện cho hơn năm mươi người mà chỉ còn một người ở lại. Vật giá, cùng với nạn lạm phát cả nước, trở nên đắt đỏ. Giá thuê nhà trung bình, chắc apartment một phòng ngủ thôi, đã lên bốn ngàn mỗi tháng…

ferry

Sáng sớm Chúa Nhật lấy ferry qua cầu Brooklyn coi Photo Ville Festival mà ngày hôm trước không coi hết. Nguyên tháng sáu nầy ở đây nhiều photographers sẽ kể chuyện của họ, qua ống kính, về những vấn đề tưởng đã cũ nhưng sẽ còn cãi nhau tới chết, giữa bạn bè, cha mẹ với con cái, anh chị em…Chuyện mấy gia đình người da đỏ tranh đấu cho sự công bằng trong lúc cố duy trì truyền thống. Chuyện phong trào sinh viên ở Berkeley. Chuyện người da đen. Chuyện phá thai.


Coi xong những tấm hình và đọc những bài viết kèm theo thì cũng đã gần trưa. Ra bờ sông ngồi xuống bậc thềm, nhìn cầu, nhìn sông. Thả lỏng ý nghĩ mình theo nước chảy mây trôi. An lành và vô cùng tự do. Nhiều khi tưởng mìnhđời mình không là một để có thể tách ra, để mình có thể đứng lui mà nhìn lại, rồi bỡn cợt với đời mình.


*


New York sống động nhưng vội vàng và đắt đỏ. Mà thật ra cũng tuỳ mỗi người muốn sống như thế nào, ưu tiên đặt ở đâu, tìm biết cái gì là quan trọng nhất để đem tới hạnh phúc cho đời mình.

Như sáng nay, lấy chuyến ferry đầu tiên từ Wall Street lúc 7 giờ 19 phút, mình là người đầu tiên và duy nhất trên chuyến tàu nầy, trả 5 đô-la rưỡi cho chuyến đi lẫn về. Và bây giờ, ngồi trên bậc thềm, nhìn bâng quơ qua thành phố New York dưới nắng đẹp bên kia sông, thanh thản nhẹ nhàng, không vướng bận. Caviar, truffle hay uni…làm chi cho tốn kém, rắc rối, bận tâm. Chỉ một khúc bánh mì chả lụa, có mấy lát dưa leo, ít cọng ngò, chai nước trà là có thể ngồi nán lại đây thêm vài ba giờ nữa, cho tới chiều. 


*


Còn có ẩn ý khác cho buổi sáng nầy: ghé coi tiệm cà phê % Arabica vừa mới mở gần chân cầu, mua một ly Kyoto latte coi thử có giống với ly cà-phê của họ ở Kyoto, nơi tiệm nầy thành lập, mà mỗi lần qua thế nào cũng phải ghé lại. Bên cạnh, một tiệm Michellin-starred ramen sẽ mở tháng sau. Ramen có gì ngon hơn bún bò Huế, phở hay hủ tiếu, nhưng đến bao giờ mới có một tiệm bún bò, hủ tiếu hay phở hãnh diện có ngôi sao Michellin bên cạnh! 


*


email của người trong sở, chắc lại quên password nữa rồi, nhưng không, email viết “I left the McNamara book on your desk. A good read.


Ông nầy hay nói chuyện sách vở và lưu tâm tới chuyện Việt-Nam vì đã có thời gian đóng quân ở Đà-Nẵng trong chiến tranh. Mấy tháng trước nói với ông về cuốn “Because Our Fathers Lied” khi gặp nhau làm cà-phê trong nhà bếp, ông nói để ông mua khi sách xuất bản rồi chia nhau cùng đọc. Đã mấy tháng rồi, công việc lại rất bộn bề, thế mà ông cũng còn nhớ, và lại giữ lời.


Khi về sẽ ghé qua office của ông để cảm ơn, nhưng sẽ không nói mình cũng có một cuốn và đã đọc mấy tháng trước rồi. Học cho đã khó mà học nhận còn khó hơn…


Nguyễn Q.

(Tháng 6, 2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.