Hôm nay,  

THƠ THÁNG BẨY

16/07/202217:31:00(Xem: 3657)

THƠ TRẦN HOÀNG VY

 

photo2
Tranh Đỗ Hoa.

 

Mắt Chăm

 

Em đội khăn màu mây trắng Phan Rang

Mái tóc ngày mê man biển lặng

Nét núi tô lông mày phơn phớt

Mắt nghiêng đêm biển trăng vàng!

 

Váy xếp hồn nhiên chân trần. Cát

Gạch ngàn năm ửng môi má dậy thì

Che phía nghiêng thành, mong manh quạt

Người đăm đắm tiếng đàn Kanhi…

 

Mắt Chăm có tiếng trầm trầm Ghinăng,

Lung liêng giọt nắng bàn tay nhịp

Biển sóng mùa mây giăng

Hun hút điệu kèn Saranai, khóe ma mị?

 

Xương rồng đơm hoa, suốt mấy động cát

Tẩy trần mắt lênh loang cổ tháp

Bóng mát rượi rười,

Đuôi mắt cười vô thanh, ngân ngấn nước.

 

Mắt em xưa chập chờn luân vũ

Đong đầy sao hồ tình?

Giọt nhớ

Thuyền neo một sáng dậy bình minh?

 

Múa Rija

Mắt múa hình rẻ quạt

Khăn bay ngày mây trắng

Mắt trưa đầy gió, đầy sóng, bập bềnh hoa!


 

Tiếng phong linh trên đi tnh đ

 

Chiều rung tiếng gió cây đưa tiễn

Lá cuối mùa như nước mắt sương

Đồi ôm cỏ biếc con chim lạc...

Khản giọng hoàng hôn mây tha hương!

 

Chợt tịnh một nụ sen chúm chím

Tiếng gió cười như tiếng nước trôi

Chùa cổ nghe kinh Ba la mật

Chuông ngày lay động, đổ mồ hôi?

 

Đếm tiếng chuông và tiếng gió khua

Bước chân giày cỏ phút giao mùa

Nghe con ve mớ trong lòng đất

Chiếc lá chạm vào tiếng chuông khua.

 

Đồi nắng. Gió vừa hong cỏ rối

Tiếng chuông rơi trên lá khô mềm

Nam Vô tràng hạt. Nghe hơi rượu...

Tiếng rót vào ly tiếng gió đêm?

 

Chỉ tiếng suối thôi. Tiếng nước reo

Thoảng hương sen, men dậy hương theo

Lòng như bình cũ. Phong linh rót

Mấy dặm tìm nhau ngộ giữa đèo...

 

 

Tập quên

 

Nhớ nhiều rồi sẽ quên thôi

leo lên sườn núi để ngồi tập quên

nhìn trong cây lá mông mênh

lá xanh để nhớ. Để quên lá vàng!

 

bao nhiêu quên nhớ nhân gian

ấu thơ bài học vội vàng mải chơi

bao nhiêu tính toán rớt rơi

lớn lên chạm ngõ cửa đời chi ly

 

nhớ quên ngày bước chân đi

lọc lừa, toan tính đôi khi lầm người

khổ đau để nhớ rồi cười

dối gian cố khóc quên người bạc đen!

 

nhẹ hều gương mặt lạ quen

như hơi rượu nhạt thoáng men chua nồng

tiễn người về cõi mênh mông

là đêm đêm nhớ có không kiếp buồn?

 

tập quên bao kẻ nói suông

những tên mặt trắng bán buôn bạn bè

tập quên luôn thuở ngựa xe

áo nâu, giày vải bước nhè nhẹ tênh

 

nhìn lên vách núi chênh vênh

bao nhiêu là nhớ nổi nênh ùa về

tôi vừa sực tỉnh cơn mê

trong tay chiếc lá bồ đề vàng phai...

 

 

Tiếng đàn đá

 

Đá vẫn đá ẩn mình trầm tích

Người ngàn năm chọn đá làm đàn

Chợt bắt gặp mùa xuân rêu bích

Chạm vào đâu rung ngàn tiếng vang?

 

Oai linh dũng mãnh người dời núi

Mở đất ngày xuân đọng giọt đàn

Có tiếng quân reo, gươm giáo chạm

Người xa người trầm uất lời than.

 

Và tiếng mưa rào cây tách vỏ

Gió chiều lộng vó ngựa đồng bưng

Âm âm tiếng sấm hồng hoang cỏ

Con nhạn buồn cất giọng rưng rưng.

 

Đá thấm vào hồn đau vạn năm

Tiếng cười, tiếng nói thuở xa xăm

Câu ai, câu oán, câu tình tự

Giọt nắng, giọt trăng buổi nguyệt rằm

 

Mùa xuân người xếp đá thẩm âm

Nâng chén rượu rót vào dâu bể

Giọt đàn đá, chuyện xưa mẹ kể

Như suối xa trong trẻo mạch ngầm.

 

Lời mẹ ru đồng xuân lúa hát

Điệu lý, hò, quan họ, ca dao

Tiếng đàn đá giọt mồ hôi mặn

Thảo nguyên xanh sắc cỏ mưa rào…

 

Tôi chào tôi


Tôi chào tôi giữa xứ người

Trời xanh, mây trắng, xuân ngời vô thanh

Chào tôi, chào chị, chào anh

Hello, hi, good... tóc xanh, tóc vàng!

 

Chào homeless, gã lang thang

Tôi chào tôi với nắng chan bậc thềm

Bước đi, cỏ mượt nhung mềm

Nghe đời chuyển dịch có thêm nụ cười?

 

Chào tôi, con mắt hổ ngươi

Ngày xa hạ nhớ, xanh tươi nhuộm hồng

Xòe tay, sắc sắc, không không

Dấu chân quê cũ phiêu bồng xứ xa

 

Chào tôi, bốn biển, quê nhà

Vịn thương mà bước, dựa hoa mà ngồi

Vô thanh, vô ảnh, lở bồi

Tôi chào tôi với xa xôi chợt gần...

 

– Trn Hoàng Vy

 

*

 

THƠ KIM LOAN

 

BLUESNHO
Tranh Đinh Cường.

 

Chiều, ở một ngã tư

 

Có những lần tôi lái xe vội vã

Trên con đường đông xe cộ ngược xuôi

Có thể tôi vô tình (phút giây thôi)

Làm chen lấn, kẹt đường (tôi xin lỗi)

 

Không thấy mặt nhau, không cần lời nói

Người nhường tôi đi trước, để đi sau

Lời thứ tha nhẹ nhàng (có gì đâu!)

Xin cám ơn chiều nay, một người lạ

 

Cuộc sống như những con đường, muôn ngả

Có khi đường đông, có lúc vắng tênh

Ngã tư buồn rồi đến ngã tư vui

Lại quẩn quanh những điều rất quen thuộc

 

Hãy nối lại gần hơn những cách biệt

Nếu có gì sơ suất, mất lòng nhau

Nụ cười là món quà đẹp nhớ lâu

Ánh mắt vui tươi xoá tan băng giá

 

Tôi nhủ lòng là dòng sông (không sỏi đá)

Đừng cạn khô dù nắng cháy trưa hè

Mang yên vui ra biển cả đợi chờ

Đừng dâng lũ khi mưa nguồn, gió núi

 

Tôi nhủ lòng, bình minh hay đêm tối

Mang những giọt sương tươi mát cỏ cây

Là mặt hồ soi bóng ánh trăng đầy

Thanh thản khép mình bên suối réo rắt

 

Nếu hạt bụi tình cờ bay vào mắt

Tôi cũng dặn lòng mình, có sá chi

Gửi hờn ghen theo cơn gió mang đi

Trả giận dữ vào thênh thang phố xá

 

Những con đường thân quen, (yên bình quá)

Tôi bâng khuâng, lòng không nắng không mưa

Trên đỉnh trời, làn mây trắng đong đưa

Xao xuyến dậy chút mộng mơ thi sỹ

 

Ngã tư dẫn về đâu hồn tri kỷ?

Những khuôn mặt người qua lại lao xao

Tôi lạc tôi rồi (chẳng biết nơi nao!)

Trong ráng chiều, kìa đèn xanh lấp lánh!

 

Kim Loan

(Edmonton, sau những ngày mưa, July 2022)

 

*

THƠ TRẦN HẠ VI

DTChinh_5
Tranh Đinh Trường Chinh.

 

tình nhân ơi

 

Tình nhân ơi, gọi em đi

Tên em trên môi anh dòng ngọt ngào chảy mật

Ta rúc vào nhau

cơn cuồng si hổn hển ngắn dài

quên áo cơm đời chật vật

 

Em nhớ anh

cồn cào cội nguồn thúc thôi triền khao khát

Em mong anh

mơ lắm một bàn tay!

 

Yêu em đi

ngoài kia ngày vẫn là ngày

Đêm vẫn là đêm, chỉ chúng mình là bỏng rát

Cuộn trào trong từng cơn khát

Khát anh khát em

quằn quại đam mê khát tình…

 

Tình nhân ơi

sao anh cứ làm thinh?

Nghĩ gì bên bờ môi căng mọng ngụm tươi non mời gọi

Mưa nguồn lũ xối

Úp mặt em cười sau nhàu gối chăn hoan

 

Mưa xuân lất phất tưới nụ hoa xoan

Ú ớ hoan mê những lời vô nghĩa

Nuốt lấy nhau kệ tiếng đời mai mỉa

Nguyên thủy hồng hoang tràn về…

sự sống mới mới lại sinh sôi

 

Tình nhân ơi,

lại nhớ anh rồi….

 


 

Bông hoa ca Van Gogh

 

Hãy nhìn ngắm bông hoa này

bông hoa trên cánh đồng

nơi Van Gogh đã vẽ bức tranh cuối cùng

vào mùa hè năm 1890

 

Cánh đồng lúa mì và lũ quạ*

còn trơ gốc rạ

một bông anh túc đỏ mỉm cười

nhớ chăng chàng họa sĩ 37 tuổi

vật vờ giữa đói nghèo bệnh tật

điên loạn

trong những năm tháng đỉnh điểm thăng hoa

 

và tất cả chúng ta

chúng ta hiểu gì về người đã chết

hiểu gì về thế giới rối tung sợ sệt

những cắt cứa bào mòn

những nỗi buồn trầm kha

nhấn chìm cùng men rượu

ngày lại ngày qua

chìm dần

chìm dần

tối thẫm

 

đàn quạ đen bay lên

bông hoa đỏ bay lên

bay lên

bay lên

Van Gogh đã thấy gì

giữa màn chiều xám xịt

tiếng thì thầm quỷ dữ phải chăng là có thực

giữa những tiếng nợ réo kêu đòi

tiếng nghẹn uất thê thiết không trung

 

gốc rạ bén cắt chân người

áo cơm thất bại cắt thịt da hàng ngàn nhát

vỡ vụn

nổ tung

 

thăng hoa

thăng hoa

ngàn đời sau ca ngợi một thiên tài

 

Van Gogh – tháng 7 năm 1890

vật vã

không vẽ nổi tâm hồn mình

 

* Wheatfield with Crows, tên bức tranh cuối cùng của Van Gogh.

 

Củ hành

 

Mỗi cuộc trò chuyện

của chúng ta

là một lần cởi vỏ

 

Áo quần son phấn vài lớp vải lớp sơn

chiều sâu tâm hồn

thăm thẳm

 

Anh cởi mở với em một lần

cũng là tự rọi vào lòng mình thêm lần nữa

Căn phòng bí mật có nhiều cánh cửa

Mở khóa một lần

lại thêm cửa bên trong

 

Rất nhiều câu chuyện đã thuộc nằm lòng

Khi kể ra

lại mang nhiều ý nghĩa khác

Những ký ức ngỡ ẩn sâu phần vỏ não lười nhác

nhoi nhói phận mình

thở nhịp đau chung

 

Mỗi lần thổ lộ cứ ngỡ kết cùng

Chỉ để mở ra nhiều nhận thức mới

Thành La Mã không xây trong một ngày*

Hãy kiên trì cùng anh trên dặm dài vạn lý

Dẫu ta có thể yêu nhau

và chẳng cần hiểu gì nhau

 

Anh – củ hành mộc mạc

chiều nay

cởi thêm một lớp

làm mắt em cay...

 

* ngạn ngữ

 

 

Hai ngưi đàn ông cui cùng

 

Hai người đàn ông cuối cùng

Khi rời đi

đã quên khóa cửa

 

Chị nhặt màu chiều gói lại một thanh âm

Đường vân chiếu ngang tuần hoàn tơ máu

Đám cỏ dại đường parabol liềm hái

Nhựa ứa ra hăng hắc nồng nồng

 

Bên ấy bây giờ liệu có phải mùa đông

Quả thông già nua sót lại

Thời gian đựng trong chén trà trôi mãi

Chị soi bóng mình

hay bóng thủy tiên

 

Cánh cửa tre nghiêng

kẽo kẹt

Chàng trai trẻ cuối làng

ghé xin ngụm nước mát

 

Giếng khô.

 

Trần Hạ Vi

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.