Hôm nay,  

Giấy đi cầu

20/07/202210:30:00(Xem: 4371)

Tạp bút

dicau


Ai cũng biết giấy là một vật rất quan trọng trong cuộc sống của nhân loại. Thời xa xưa, giấy vừa quý hiếm vừa mắc, chỉ được dùng trong việc ghi chép kinh kệ trong các nghi lễ tôn giáo, và cho các văn tự trong cung đình của vua chúa. Giấy được chế tạo lần đầu tiên vào năm 105 AD trước Công Nguyên, bên Tàu,  bởi một quan thái giám tên Ts’ai Lun (1). Nhưng hôm nay, tôi chỉ xin nói đến một khía cạnh “cực kỳ” quan trọng không kém của giấy, có khi quan trọng hơn là đằng khác trong thời đại chúng ta đang sống hôm nay, là giấy vệ sinh (toilet/bathroom tissue), nói nôm na là giấy đi cầu. 


Ở các nước giàu có, văn minh, giấy vệ sinh được bày bán rất nhiều trong các tiệm hoặc các chợ bán thực phẩm; còn ở Việt Nam, giấy đi cầu cũng thừa mứa đến nỗi người dân dùng để…lau miệng trong các tiệm ăn, nhà hàng. Hầu như toàn thế giới đều không biết quý trọng giấy vệ sinh cho đến khi nhân tai Covid xảy ra, giấy vệ sinh trở nên khan hiếm; không nói ra, ai cũng biết và từng chứng kiến cảnh xếp hàng dài ở các tiệm, giành giật nhau từng cuộn giấy vệ sinh. Không khéo còn xảy ra chiến tranh vì giấy đi cầu.


Sau trận đại dịch, nhiều người bắt đầu chuyển sang xài nước để nếu bất cứ chuyện xảy ra lần nữa, họ cũng vẫn có thể giữ cho thân thể mình được sạch sẽ. Thế mới hay giấy đi cầu, sau vài ngày bỗng trở nên quý hiếm y như mấy thế kỷ trước đây lúc nhân loại vừa biết cách làm ra giấy. Họ trang bị cho các bàn cầu trong nhà bằng một loại dụng cụ được gọi là “bidet” (2), tức máy rửa phần dưới, thay cho giấy. 


Tại đất nước con cháu Thái Dương Thần Nữ, người dân đã đi trước thế giới một thời gian dài. Những lần ghé nước Nhật, ở trong các khách sạn, tôi đều có dịp sử dụng máy rửa này, thật tiện lợi vì ấm áp trong mùa Đông, mát mẻ trong mùa Hè. Phiền một điều là những cái nút xử dụng chỉ được viết bằng tiếng Nhật; may nhờ hồi nhỏ hay coi truyện tranh có hình, tôi cũng mò mẫm xử dụng đúng “chức năng” chùi rửa và hong khô của nó. Về lại Mỹ, tôi mua ngay 1 cái gắn trong bàn cầu nhà, xài thử để bắt kịp nền “văn hóa rửa” của Nhật Bản, để cho bằng anh và bằng em, và quan trọng hơn nữa là để khỏi lo thiếu giấy khi khan hiếm.


Thật ra bidet được sáng chế ở Pháp vào cuối thế kỷ thứ 17, không được thịnh hành cho lắm vì chỉ nhà giàu mới dám xài; nhưng lịch sử Châu Âu có ghi, vào hậu bán thế kỷ thứ 18, hoàng hậu Maria Carolina của xứ Sicily và Naples đã cho gắn bidet trong phòng tắm của nàng.


Xin trở lại đề tài chính là giấy vệ sinh. Tuy hiện nay, con người đã khôn ra và biết xử dụng cả giấy lẫn nước, nhưng có bao giờ chúng ta thắc mắc, tò mò, thời cổ đại, con người ta khi cần phải giải quyết “bầu tâm sự”, nghĩa là phải xách cuốc ra đồng hay ôm bụng chạy ra sau hè, họ xài gì để chùi khi chưa có giấy? Rồi khi có giấy, tại sao con người vẫn chưa dám xài? Ngày nay, trong các nước nghèo như các nước cộng sản và một số nước ở Châu Phi, không có tiền mua giấy, họ dùng cái khỉ khô gì để làm sạch phía dưới?


Giờ nói chuyện bên Tây trước: khi chưa có giấy, người cổ La Mã và Hy Lạp ngày xưa xài một cây gậy, một đầu được quấn bông gòn hay miếng bọt bể, sau khi xài xong, ngâm đầu gậy vào thùng nước, rửa xong đem phơi khô để xài cho lần tới. Họ gọi cây gậy này là Tersorium. Năm 850 trước Công Nguyên, hai thày trò nhà thơ Hy Lạp Homer hay đi rong ruỗi trên đường, khi mắc đại tiện, họ xài cái gì để chùi? Homer là một đại thi hào mù, ông là tác giả thiên trường thi nổi tiếng “The Odyssee” được truyền tụng đến bây giờ. Theo truyền thuyết, trong túi đồ đeo bên vai của chú tiểu đồng đi theo hầu, lúc nào cũng có vài viên đá cuội dành cho việc đại tiện của chủ mình. Nếu hơi nhám, xài 3 viên, còn trơn láng, xài 4 viên. Nhiều nhà sử học kết luận, đế quốc La Mã cũng chấp nhận thời đó người dân đều xài đá cuội hay miếng giẻ từ quần áo cũ, được giặt sạch sau mỗi lần dùng.


Châu Âu thời Trung Cổ, thời các hiệp sĩ, vua quan, và dân thường. Họ xài gì khi cần đi “trút bầu tâm sự”? Ngoài xài nước là thứ không phải lúc nào cũng sẵn một bên, các chàng kỵ sĩ, quân lính trên đường ra mặt trận, họ phải xài một cành cây nhỏ hơi cong ở một đầu, hoặc lá cây, rơm, cỏ khô hay một cục đất khô, còn sang hơn một chút là miếng rong rêu phơi khô vì thứ này mịn và êm ái hơn nhiều.


Thời Phục Hưng bên Pháp: vua chúa và giới thượng lưu, mỗi khi “đi việc cần” , họ đi đâu, xài vật liệu gì để chùi? Nhà xí của họ hình dáng ra sao? Thời này văn minh hơn, giấy đã bắt đầu phổ biến nhiều nhưng vẫn rất đắt đỏ vì hầu hết chỉ được xài trong văn tự cung đình và trong văn chương, thi phú và hội họa cho giới thượng lưu. Thời hoàng đế Napoleon, người giàu đã dám xài giấy, loại giấy xài rồi, có chữ viết bị bỏ đi, họ chỉ vò cho nó mềm để chùi. Còn dân nghèo vẫn phải xài giẻ rách, chùi rồi giặt lại xài tiếp cho đến khi nào tả tơi thì thôi. 


Có truyền thuyết ghi chép rằng trong triều đình Pháp còn xài dây thừng. Trong nhà vệ sinh của hoàng gia lúc nào cũng có 1 sợi dây thừng treo toòng teng kế bên dành cho việc đi ngoài. Khi xong việc đại quan trọng, người ta chỉ cần lòn dây thừng qua giữa hai chân, rồi kéo tới kéo lui như chơi đàn violon vậy. Quả là “đại tiện…lợi”. Họ không thích thay dây mới: đức vua xài xong, đến hoàng hậu, rồi các triều thần. Người ta giải thích vì việc này tượng trưng cho vua tôi một dạ một lòng, trung thành và chí tình với nhau. Nhưng tôi ngờ rằng họ không thay vì lý do “nhạy cảm” như các vị “tủ lạnh” trong nước hay nói; dây cũ thì trơn tru, kém độ ma sát, còn dây mới thì nhám nhúa, coi bộ hơi thốn dữ đa. Cứ tưởng tượng một tờ giấy nhám còn mới, độ nhám số 80 hay số 120 mà chà vào nơi nhạy cảm thì phải biết, còn xót xa hơn cả một mùa Đông tê tái. 


 blank

 Ghế bồn cầu xài trong cung điện Versailles, Pháp.

blank 

Bidet được dùng trong thế kỷ 18 Châu Âu.


Bây giờ nói về giấy vệ sinh bên ta mà 3 nước lớn và văn minh tiêu biểu như Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản.


blankblank

Hình trái: Bàn cầu của Từ Hy thái hậu bên Tàu; Hình phải:  Chugi, thẻ tre của Nhật Bản thời chưa xài giấy.


Thời cổ bên xứ Phù Tang, hoàng gia và triều thần, các Samurai và quý tộc đều xài Chugi vì chưa có giấy. Chugi là những thanh gỗ hay thanh tre dùng để quẹt phía dưới sau khi giải tỏa xong “bầu tâm sự”. Nó trở nên thịnh hành vì rẻ và rửa lại xài tiếp, nói theo ngôn ngữ trong nước là xài “liên hoàn”, có nghĩa là cứ xài đi xài lại, càng xài càng bóng và càng êm. Họ đã xài Chugi trong cả ngàn năm mà vẫn chưa bao giờ lỗi thời. Chỉ những gia đình vua chúa, quyền quý mới biết xài giấy vào thế kỷ thứ 7 sau công nguyên.


Có truyền thuyết hoàng gia Nhật cũng xài cánh của con ve sầu. Cánh ve cứng và giòn, nên người hầu phải ngâm trong nước ấm 3 ngày mới đem ra dùng được. Phương cách này có điều lợi là cánh ve sầu trong suốt nên có nhìn thấu qua để biết hoàng tộc có bị bệnh đàng dưới như táo bón, kiết lỵ, hoặc có bị  “Tào Tháo rượt” hay không? Điều này rất dễ dàng cho các ngự y chẩn và chữa bệnh cho hoàng gia.


Còn anh hàng xóm khổng lồ 4 tốt, 16 chữ vàng kế bên, thời xưa xài cái gì? Vào thời Tam Quốc khoảng năm 220-280, trong sách Tư Tri Thông Giám có viết rằng người Tàu cũng xài một thanh gỗ hay thanh tre được vuốt theo hình cái thẻ, gọi là Xí Trù (廁籌).


Thời xưa không có giấy vệ sinh, người xưa dùng cái gì ? – Triết học đời sống

Xí trù: Thẻ tre đi cầu ngày xưa bên Tàu.


Thời Phật Giáo còn sơ khai, sau khi Đức Phật đã nhập Niết Bàn cả trăm năm rồi, các đệ tử mới ghi chép lại trong Tì Ni Mẫu Kinh, lời Đức Phật dạy khi đi nhà xí, ta phải đem theo thẻ tre và cỏ khô đến trước nhà xí, ta phải búng ngón tay 3 lần để người bên trong biết có người đang ở bên ngoài chờ đến phiên. Khi xong, nếu không có thẻ tre thì không được chà lên vách, ván, hay cột của nhà xí. Không được dùng đá, đất nhuyễn, cỏ tươi, lá cây mềm, hay các loại cây lạ. Chỉ được xài gỗ, tre, hay cỏ lau làm thành thẻ tre dài nhất một gang tay, ngắn là 4 lóng tay. Cái nào xài rồi, không được để lẫn lộn với thẻ sạch. Qua chuyện này, chúng ta biết người Ấn Độ đã đi trước người Tàu trong việc xử dụng thẻ tre trong việc vệ sinh cá nhân.


Dù người Tàu đã sáng chế ra giấy từ năm 105, nhưng giấy vẫn là một món hàng quý và đắt, là một trong văn phòng tứ bửu gồm Bút, Nghiên, Giấy, Mực. Giấy cũng được dùng trong việc thờ tự và là một phương tiện giao tiếp với trời đất thần linh bằng cách viết chữ trên đó, đốt tờ giấy để dâng lên thần thánh. Vì vậy, đối với người Tàu, giấy vẫn là một thứ linh thiêng và quý hiếm.

Lúc hoạn quan Nguyễn An xây Tử Cấm Thành năm 1420, không hề có bất cứ một cầu tiêu hay nhà xí nào trong khuôn viên. Người hầu phải khiêng những thùng gỗ chất thải, đi theo một lối đi riêng, sau khi hoàng gia xài xong, họ xịt nước hoa để khử mùi.  Khi Càn Long lên ngôi (1711-1799), ông mới cho xây 3 nhà xí trong cung điện của mẹ mình, có giấy chùi đầy đủ kèm theo.


Người Ấn Độ dạy cho người Tàu cách dùng thẻ tre trong một thời gian rất lâu; rồi đến con cháu Thành Cát Tư Hãn mới chỉ cho người Tàu cách thay que bằng giấy khi họ chiếm toàn cõi Trung Hoa. Người Mông Cổ vốn không đặt nặng vấn đề tín ngưỡng nên không coi trọng giấy trong việc thờ phượng. Theo Nguyên Sử, phần liệt truyện của Du Tôn Huy Nhân Dụ Thánh hoàng hậu, có ghi: nàng Bá Lam Dã Khiếp Xích, khi còn là vợ của thái tử, sống rất hiếu thuận với mẹ chồng, tức mẹ của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt; nàng thường dùng má của mình để thử độ mịn màng của giấy trước khi đưa cho Chiêu Duệ Thuận Thánh hoàng hậu dùng trong việc vệ sinh cá nhân. 

Thời nhà Minh, trong sách sử cuốn 50, có ghi về một cơ quan chuyên lo việc về giấy đi cầu trong cung đình được gọi là Bửu Sao Ty. Đến thời nhà Thanh, có nhiều sử sách có viết về việc dùng giấy đi cầu. Trong truyện Hồng Lâu Mộng, giữa thế kỷ thứ 18, đời Càn Long, nhà Thanh, hồi thứ 41, có đoạn tả cảnh  lão Lưu bất giác thấy bụng sôi sùng sục, bèn hét một a hoàn lấy cho mấy tờ giấy, rồi định cởi quần ra. Mấy người gần đó vừa cười vừa quát to: “Chỗ này không đi được đâu!”. Rồi sai một bà già đưa lão Lưu đi về hướng Đông Bắc. Đưa lão Lưu đến nơi, bà già vội lẩn đi nơi khác. 


Viết về đủ các thời kỳ, cách thức các nước trên thế giới xài giấy đi cầu mà không viết về thời văn minh đỉnh cao đi thụt lùi của người và của chế độ cộng sản sau năm 1975, sẽ là một thiếu sót lớn lao trong lịch sử Việt Nam thời cận đại. Cái thời mà người người, nhà nhà, ngoại trừ mấy mấy “ngài tủ lạnh” cao cấp và gia đình họ, dân đen, ai nấy đều phải “tư duy sâu”, “phát huy sáng kiến”, tận dụng và “cải thiện” tối đa phương tiện có được trong thiên nhiên, ngoài nước sông, nước giếng, nước hồ, ai nấy lo bứt lá cây mềm, xui tận mạng mới hái lầm lá Poison Ivy, xài lá chuối khô mà phải đúng lá chuối xiêm phơi một nắng cho nó mịn màng; nếu đang ở ngoài ruộng thì bờ cỏ non, xanh mềm như nhung là tuyệt vời nhất, xong việc, cọ bàn tọa lên bờ cỏ êm ái, thì cảm giác còn mê ly hơn lý tưởng cộng sản gấp vạn lần.


Riêng tôi lúc đó đang phá rẫy trồng đậu và bắp ở trong rừng nên có dư dả vật liệu cho việc “đi đồng”. Tôi phơi khô và tích trữ cùi bắp và vỏ trái bắp rất nhiều, cả một kho. Ai thiếu thốn, tôi không biết, tôi chỉ biết tôi dư thừa “giấy đi cầu” cho riêng bản thân tôi, lại còn có dư để tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội mà không cần đến cái thứ giấy “Kiss Me” của bọn tư bản giãy chết. 


Một lần tôi từ trên rẫy về thăm nhà, chở theo về một ít nông sản trồng được ở rừng về cho gia đình. Tôi bắt gặp đứa em gái từ trong nhà xí bước ra, trên tay cầm một tập thơ Tố Hữu trong tủ sách của tôi, chỉ còn lam nham vài tờ. Thấy tôi, mặt nó tái xanh, thất thần và hoảng sợ; còn tôi giật mình, đau nhói trong tim, không phải tiếc tập thơ mà vì thương em gái mình. Từ một đứa bé gái quen sống ở thị thành, không biết khổ là gì, nay phải xài cái thứ giấy màu nâu nhám nhúa, thô ráp, lòng tôi quặn đau vì thương em.


Chiều hôm đó, một bà ve chai đi ngang nhà, rao bán giấy vụn cân ký cho người ta gói hàng, tôi kêu vô và thấy mấy chồng báo Nhân Dân, một cuốn Tư Bản Luận, vài cuốn sách về chủ nghĩa cộng sản đóng bìa da mạ vàng còn mới tinh do nhà xuất bản Chính Trị Sự Thật in ra còn thơm mùi mực, giá rẻ rề. Tôi mua hết cả gánh cho bà ra về được nhẹ nhàng. Bà cho hay, nếu cần thêm, bà còn cả đống sách mới nguyên, còn ràng giây cẩn thận, cũng do những nhà xuất bản nhà nước mới in xong, chưa ráo mực, bà sẽ gánh đến bán cho tôi, giá rất phải chăng. Tôi vui vì đã có một quyết định đúng lúc và tôi tự hứa không để gia đình mình phải xài cùi bắp do tôi mang về. 


Có lẽ do sống khá lâu trong xứ thiên đường nên bà xã tôi có cái tật đầu cơ tích trữ, kể cả tích trữ giấy đi cầu, nhờ vậy trong thời đại dịch, chúng tôi chưa bao giờ thiếu giấy. Bây giờ lại có thêm bidet hỗ trợ thì tôi chẳng còn phải lo chi việc giấy…tờ. Dầu sao qua những thăng trầm lịch sử của giấy đi cầu, tôi cũng rút ra được kinh nghiệm sống: trong cái khó, nó ló cái khôn; ở trong nước thì trong cái khó, nó ló cái gian. Nếu không có cả hai thứ cần thiết là giấy và bidet, tôi vẫn sống khỏe bằng chính đôi tay của mình, bằng những cái mình tự có khi phải trả lời tiếng gọi thiên nhiên của cơ thể mình mà người Mỹ vẫn nói với đùa với nhau một cách dí dỏm và văn hoa khi con người phải “answer nature’s call”, be ready. 

    

blank

Giấy đi cầu Việt Nam thời XHCN.


Nguyễn Văn Tới (LT)

(7/2022)


Chú thích:


https://en.wikipedia.org/wiki/Cai_Lun

https://en.wikipedia.org/wiki/Bidet

https://www.travelchinaguide.com/attraction/beijing/are-there-toilets-inside-forbidden-city.htm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.