Hôm nay,  

Ba “Giang Hồ”

20/08/202212:09:00(Xem: 3670)

Truyện ngắn

1- Ann Phong, the journey, mixed media, 40x55, 2014
Tranh Ann Phong.



Tôi đến phi trường với tấm lòng trĩu nặng lo buồn mặc dù đã biết trước những điều này sẽ đến. Ba tôi bị ung thư gan, khi phát hiện ra thì căn bệnh phát triển theo chiều hướng xấu rất mau lẹ, mỗi ngày gia đình nhận thêm vài thông tin buồn từ các bác sĩ, không còn hi vọng gì.

 

Tôi dự tính cuối tuần này sẽ mua vé máy bay về thăm ba nhưng dường như không kịp nữa, tôi nhận được điện thoại của má báo phải về gấp rút ngay hôm nay để gặp mặt ba lần cuối. Ba đang chờ đợi tôi, đứa con gái lớn nhất của ba và gần gũi với ba trong những tháng năm dài thơ ấu. Ngồi vào máy bay tôi chỉ biết cầu mong cho chuyến bay vượt không gian mấy tiếng đồng hồ sẽ trôi qua thật mau để đưa tôi về bên ba.

 

*

 

Ngày xưa, khi tôi còn là một con bé, tôi thân thiết với cha lắm, vì tôi là đứa con duy nhất. Má sanh tôi ra vài năm sau thì ốm yếu, đau bệnh gì đó không thể mang thai sinh đẻ được nữa. Má buồn rầu lắm vì e ngại không có con trai cho ba nối dõi tông đường. Ba nhiều lần nói cho má vui lòng:

 

– Con nhỏ này là con cầu tự của tôi mà, mình đừng lo chi cho mệt, sau này con nó đẻ ra sẽ là cháu đích tôn của mình, cháu nội, cháu ngoại cũng là ruột gìa máu mủ của mình chứ ai.

 

Nghiễm nhiên ba coi tôi như một thằng con trai, đi đâu ba cũng dắt tôi theo, như mỗi sáng ra tiệm cà phê của chú Lù ở đầu hẻm, ba ngồi nhâm nhi tách cà phê đen ngòm và hút thuốc, còn tôi ung dung điểm tâm với chiếc bánh bao nhân thịt nóng hổi. Khi ra về ba lại mua thêm chiếc bánh bao nóng hổi khác cho má ở nhà.

 

Ba làm thợ xây cho mấy ông cai thầu lương ba cọc ba đồng mà thỉnh thoảng vẫn phải đi xa khỏi thành phố vì nhu cầu của công việc, còn má ở nhà quán xuyến một cửa hàng tạp hóa đông khách, háng bán đủ thứ lại còn thêm vài món má tự làm như muối dưa chua, cà pháo, chưng nước màu dừa, làm mắm, nên cửa hàng tạp hóa kiêm luôn vài món thức ăn bình dân cho các gia đình trong xóm.

 

Má tôi chết vì bệnh ung thư cổ tử cung, năm ấy tôi mới 8 tuổi.

Thế là hai cha con tôi sống thui thủi trong căn nhà đã vắng đi hình bóng người đàn bà, dù chỉ là một người đàn bà đau yếu thường xuyên nhưng cũng có hơi ấm một mái gia đình, có khói bếp, có tiếng nói cười.

 

Buồn chán vì mất đi người vợ hiền đảm đang và vì thương tôi bé bỏng không ai chăm sóc, ba tôi đã từ chối những lần phải đi xây cất xa nhà, nên lợi tức càng ngày càng kém. Ba như chiếc kiềng ba chân bỗng bị gãy đi một chân, chông chênh muốn đổ. Ba sinh ra cờ bạc và nhậu nhẹt, số tiền dành dụm ít ỏi của gia đình dần dần biến mất. Hai cha con tôi là một trong những nhà nghèo mạt rệp trong khu xóm. Ba thường khoác vào người chiếc áo sơ mi ca rô, chiếc quần jean cũ mèm để tếch ra ngoài đường, đến một đám nhậu hay một sòng bài con nào đó. Trong xóm này có mấy sòng tôi đều thuộc hết, mỗi lần tìm ba tôi cứ đi vòng vòng là sẽ thấy ba. Khi vừa thấy tôi thò mặt vào, các tay bài bạn ba ai cũng biết mặt biết tên tôi, đã kêu lên trêu chọc:

 

– Ê, kiếm ba về cho má… nhỏ hả?

 

Tức thì tôi không hài lòng đáp:

 

– Dạ, đâu có má nhỏ nào, con kêu ba về đi ngủ mai còn đi làm. Khuya quá rồi.

 

Một người khác:

– Ba Giang mày là ba Giang… Hồ, khỏi cần kiếm con ơi, khi nào chán thì ba sẽ về.

 

Thật ra ba tôi tên là Giang, nhưng trong đám bạn bè bài bạc ăn nhậu của ba đã gọi ba là “Giang Hồ”, vì cả ngày lẫn đêm ba đều lang bang ở ngoài đường hơn là ở nhà. Riết rồi lối xóm cũng cứ thế mà gọi tên ba. Dù ham mê bài bạc nhưng ba cũng lịch sự với con, ba hay nháy mắt âu yếm năn nỉ tôi:

 

– Con gái, chờ ba chơi hết ván này nghe?

 

Tôi sà xuống chiếu bạc, ngồi cạnh ba nhìn vào từng lá bài của ba dù tôi không hiểu gì, nhưng trong bụng cứ thầm cầu mong những lá bài này sẽ làm cho ba thắng nhiều tiền. Khi hai cha con ra khỏi sòng bài, đêm đã khuya, con đường hẻm về nhà có một hàng bán khô nướng về đêm, là một bàn thấp kê dưới một cột điện sáng choang, chị bán hàng thỉnh thoảng quạt bếp cho than hồng lên mỗi khi cần nướng khô cho khách và mùi khô nướng thơm ngát mũi, ai đi qua mà không thèm thuồng chỉ muốn dừng chân.

 

 Ba biết tôi thích ăn mấy món khô nướng, nên dù khuya cỡ nào, dù tiền trong túi còn hay hết ba cũng dắt tôi tấp vào hàng. Hai cha con ngồi xuống chiếc ghế thấp quanh bàn, ba kêu cho ba một ly rượu đế Gò Đen nhỏ và một miếng mực nướng, còn tôi, lúc nào cũng tham lam và hoa mắt trước những món khô đủ loại bày trên bàn, vì món nào tôi cũng muốn ăn, cả trái trứng vịt lộn nóng hổi, rắc muối tiêu ăn với rau răm. Tôi muốn ăn… tất cả.

 

Hôm nào biết ba ăn bài, tôi làm sang ăn trứng vịt lộn và thêm miếng khô mực nướng thơm phức chấm tương đen tương đỏ cho thật nhiều ớt cay, vừa ăn vừa hít hà sung sướng. Hôm nào thấy ba thua bài sạch túi, tôi không nỡ ăn sang sợ tốn tiền ba, chỉ kêu một miếng khô cá đuối rẻ tiền mà …to, cái búa của chị hàng khô gĩa lên miếng cá đuối nướng tưng tưng lên vì thịt cá đuối khô và dai, nhưng giã xong thịt nó tơi bông ra nhai trong miệng rất đậm đà, cũng chấm tương đen tương đỏ, cũng thơm phức ngon lành.

Khi ấy ba sẽ kêu chủ hàng ghi sổ, bữa khác trả. Ăn xong, cha có chút mùi rượu, con có vị tương cay trên đôi môi còn thèm thuồng, ba dắt tay tôi, trong ánh đèn điện soi sáng một khỏang đường, bóng hai cha con liêu xiêu về trong đêm vắng. Những ngày cuối tuần ba cũng không ở nhà, ba đi cả ban ngày luôn. Xóm tôi ở đi ra đầu đường là băng qua một con đường nhựa, bên kia đường là một nghĩa trang lớn, sau nghĩa trang đó là một khu làng xóm khác, nhà quê hơn bên xóm tôi, dù chẳng cách nhau bao xa. Người ta vẫn gọi bên ấy là xóm Mô.

 

Xóm Mô nằm sát phía sau của phi trường Tân Sơn Nhất, chỉ cách nhau mấy lượt hàng rào kẽm gai và những buị cây cỏ rậm rạp hoang sơ. Dân xóm Mô làm nghề vườn, trồng rau và chăn nuôi. Còn bên xóm tôi là khu bình dân lao động, cả hai xóm có điểm giống nhau là nhiều nhà nghèo. Ba tôi hay qua đó để chơi thảy “bun”, vì xóm Mô có nhiều con đường làng rộng rãi bằng đất  có nhiều cát  rất thích hợp cho trò chơi này. Những trái “bun” đều bằng sắt, nặng nề, trước hết họ thảy một cục “bun” nhỏ như trái banh tennis ra thật xa về phía trước để làm chuẩn, sau đó mỗi người lần lượt thay phiên nhau thảy từng trái “bun” lớn hơn, bằng cỡ trái cam, đến càng gần trái “bun” chuẩn càng có điểm. Ai thảy trái “bun” lớn xa hơn thì thua điểm. Họ có thể thảy “bun” tống khứ trái “bun” của người khác để giành vị trí gần tiêu điểm hơn, nên cuộc chơi càng lúc càng gay cấn, ác liệt. Ba rất mê thích trò chơi này. Và tôi không bao giờ bỏ lỡ dịp theo ba sang xóm Mô, từ ngoài nghĩa địa tôi đi vào xóm bằng con đường đất, là tới một khu đất trống, dọc theo là mấy lũy tre xanh, có con trâu cột bên bụi tre đang thảnh thơi nhai rơm hay trâu đang nằm nghỉ ngơi hóng mát.

Tôi thích nghịch ngợm, lượm mấy lá tre khô thảy cho trâu xem nó có… ngu không, có ăn lá tre khô thay rơm khô không?, hay tôi chơi với lũ trẻ xóm Mô, chơi chạy đuổi bắt, chơi lò cò, chơi tạt lon.v..v.. chán chê tôi chạy lại chỗ chơi “bun” của ba, tôi đứng chen lấn với đám đông để xem cuộc thảy “bun” bất phân thắng bại khi hai người thảy hai cục “bun” gần cục “bun” nhỏ, khỏang cách tương đương nhau, mắt nhìn khó đoán được. Tôi đã từng tà lanh chạy đi nhặt mấy cọng rơm khô vất vưởng trên đường, cạnh mấy con trâu, đưa cho ba để đo cho chính xác. Nếu ba thua, tôi đợi cho ba chơi thêm ván sau và đứng tại chỗ theo dõi, hồi hộp cầu mong cho ba thắng. Ngày nào từ xóm Mô về chân tay, quần áo tôi cũng dính đầy cát bụi, tôi thường lười không tắm, buổi tối chỉ phủi phủi hai chân vào nhau, coi như sạch sẽ, vô tư  lên giường ngủ.

 

Ba tôi càng ngày càng ăn chơi đủ thứ, làm ra đồng nào “xào” luôn đồng đó, mỗi khi bên xóm Mô không có đám chơi “bun” thì ba nhảy qua đám đá gà. Ba chơi thứ gì tôi rành về thứ đó ngay. Hai cha con như thày và trò trên con đường đời, trên con đường ăn chơi chưa hề rời nhau. Nhưng cũng có hôm ba không có nơi chốn nào để đi, ba nằm chèo queo ở nhà, là lúc cha con tâm tình:

 

– Con ơi, ráng học cho chăm cho giỏi, có chữ nghĩa lớn lên không khổ như ba.

 

Tôi học dốt lại lười, với lại chiều tối về nhà không có ba tôi cô độc, tủi thân, chỉ học bài qua loa lấy lệ là gấp tập vở lại chạy đi tìm ba, những chốn ấy vui hơn. Đi học với tôi là một cực hình, tôi thường lấy cớ đau bụng, nhức đầu để nghỉ học. Ba buồn tôi về chuyện này lắm, nhưng thương con, chiều con qúa ba đành chịu thua và làm ngơ. Tôi học dốt bị ở lại lớp, tôi mắc cở đòi nghỉ học luôn nhưng ba không cho nên tôi đi học cho có lệ, thường đứng chót bảng trong lớp.

 

Tôi nũng nịu lắc đầu:

 

– Khỏi cần, con nghèo như ba cũng được, miễn là ba đâu con theo đó nè… con thích theo ba vô bàn nhậu, ăn ké mồi của ba, theo ba vô sòng bài hốt tiền giùm khi ba thắng, rồi hai cha con mình đi ăn tiệm vui thấy mồ luôn.

– Những hôm ba thua hay không tiền thì buồn lắm con à…Con từng ăn mì gói, hay khoai lang trừ cơm mà không ớn sao?

 

Tôi bắt chước một câu nói đã thuộc lòng từ mấy ông bợm nhậu của ba đã từng nói:

 

–  “Kệ bà nó, cuộc đời lên voi xuống chó” mà ba.

 

Trong đầu óc non nớt ngây thơ của tôi, tôi thấy thế là đủ hạnh phúc rồi. Ở xóm, đứa trẻ nào mà cãi nhau hay đánh nhau với tôi là coi như…tới số, vì ba luôn bênh vực tôi bất kể phải trái. Ba tới nhà đối phương của tôi hung hăng làm dữ, nhất là khi uống rượu vào thì ba càng nóng máu hơn. Thằng Minh lé đánh tôi sưng u một cục trên trán, má nó đã biết điều dẫn nó sang tận nhà tôi hết lời xin lỗi cha con tôi, dù thực ra tôi cũng chẳng vừa, cũng túm áo đánh lại thằng Minh và chửi xa xả cả cha mẹ ông bà nhà nó bằng những lời độc địa. Khi má thằng Minh dắt con ra về khỏi cửa nhà tôi, tôi đắc thắng vênh mặt đi theo ra tới cửa và nghe thấy má nó cằn nhằn con:

 

– Lần sau mày chừa đụng tới con nhà Giang Hồ này, nghe chưa? Con chả như vàng như ngọc, đụng tới nó là không yên đâu.

 

Tôi đã khoái chí vì thấy người ta “kính sợ” ba tôi như vậy đó, tôi được ba thương yêu, che chở vì như má thằng Minh đã nói tôi là vàng ngọc của ba tôi.

 

Xóm tôi có cô thợ may, chưa bao giờ lấy chồng, chẳng hiểu sao cô thương tôi qúa chừng, thỉnh thoảng cô Hoa vẫy tôi lại cho gói bánh hay bịch chè, chắc là cô mua sẵn chỉ đợi tôi đi qua là cho. Nhưng một hôm cô không đưa tôi món đồ ăn như thường lệ, mà một gói to hơn, cô dặn dò:

 

– Con mang bộ quần áo này về cho ba Giang nghe..

 

 

Chỉ có cô Hoa là trân trọng gọi ba tôi là Giang, không là “Giang Hồ” như những người khác. Tôi ngạc nhiên:

 

– Ủa, ba con đặt may quần áo tiệm cô hả?

 

Cô Hoa bối rối:

 

– Con cứ mang về là ba hiểu mà…

 

Tôi thắc mắc:

 

– Nhưng sao chỉ có quần áo cho ba còn của con không có?

 

Cô Hoa hứa hẹn:

 

– Bảo đảm mấy ngày nữa con cũng sẽ có một bộ đồ đẹp. Chịu chưa?

 

Tôi vui thích ôm gói quần áo chạy như bay về nhà khoe ba. Nét mặt ba vui vui, tôi nghĩ là ba đã ưng ý bộ đồ này.

 

Rồi tôi cũng có bộ quần áo như cô Hoa đã hứa, cô Hoa hay sang nhà tôi chơi, ba cũng hay sang nhà cô Hoa. Từ ngày đó ba ít đi hoang hơn, chăm chỉ đi làm và ở nhà.

 

Một buổi chập tối ba dẫn tôi sang nhà cô Hoa, dường như hai người đã hẹn nhau trước, cô Hoa đóng cửa tiệm may sớm, đón cha con tôi vào nhà. Cô Hoa trịnh trọng rót nước trà và lấy bánh ngọt ra:

 

– Mời anh Giang ăn bánh, uống trà.

 

Quay sang tôi, cô Hoa trìu mến:

 

– Con ăn bánh ngọt đi, có nước ngọt cho con nè…

 

Ba tôi vào đề ngay:

 

– Cô Hoa à, tôi muốn bàn với cô một chuyện quan trọng, nếu cô thương yêu tôi thì thương yêu luôn con gái tôi được không? Có như vậy tôi mới vui vẻ mà kết duyên cùng cô, còn không thì thà tôi ở giá.

 

Cô Hoa cảm động và mau mắn đáp:

 

– Anh Giang, em thương anh và thương con anh như con em mà. Tội nghiệp con nhỏ mồ côi mẹ từ nhỏ, ai nỡ lòng nào ghét bỏ.

 

Thế là sau đó ba và cô Hoa chính thức về ở với nhau sau một đám cưới nhỏ mời họ hàng và những người hàng xóm. Năm ấy tôi 12 tuổi. Có cô Hoa như có phép nhiệm màu, ba đã dần dần bỏ nhậu nhẹt bài bạc và đi làm thợ xây cất rất đều đặn, kể cả phải đi xa nhà năm bảy bữa hay một tháng. Ba yên chí vì ở nhà đã có cô Hoa lo cho tôi. Quả tình cô Hoa rất thương yêu tôi, dù có mặt ba ở nhà hay dù ba đi làm xa, thì lúc nào cô Hoa cũng đối xử như nhau. Cô gọi tôi là “con” và xưng “má”, dần dần tôi cũng gọi cô Hoa là “má” một cách tự nhiên từ đáy lòng.

 

Hai đứa em trai cùng cha khác mẹ của tôi lần lượt ra đời.

 

Biến cố 1975, gia đình tôi may mắn xuống tàu trong dòng người di tản và được định cư ở Mỹ. Ba má tôi xin đi làm hãng xưởng ngay để nuôi ba chị em chúng tôi, tôi tuy là con lớn nhất nhà nhưng tuổi đời 16, học tiếp thì không có khả năng, đi làm thì chưa đủ tuổi. Ba má cho tôi đi học tiếng Anh còn hơn ngồi không ở nhà. Hai đứa em cùng cha khác mẹ của tôi đã lớn lên ở Mỹ và ăn học nên người, cả hai đều tốt nghiệp đại học làm kỹ sư và vợ con yên ổn. Tôi cũng lập gia đình.

Ba đứa con như ba cánh chim đã tung cánh rời tổ ấm của cha mẹ, lập tổ ấm của riêng mình. Chúng tôi mỗi người ở một nơi nhưng sự liên hệ với ba má, với chị em vẫn gắn bó với nhau.

 

*

 

Tôi tất tả đi vào bệnh viện, hai em trai tôi cũng đã về, cả nhà thay phiên nhau luôn ở bên ba. Ba đã dặn dò nhắn nhủ vợ con xong, chỉ còn mình tôi. Tôi nhào tới ôm lấy tấm thân gầy guộc của ba nghẹn ngào:

 

– Ba ơi, con đây!

 

Ba hé mắt cố nhìn thấy mặt của tôi và yếu ớt đáp lại:

 

– Giờ phút này… có đông đủ vợ con… ba mãn nguyện lắm rồi, riêng với con, ba chỉ muốn nói lời cuối cùng là ba xin lỗi con thời thơ ấu cực khổ… con có giận hờn gì ba không?

 

– Sao ba lại nói thế? Con luôn hạnh phúc sung sướng khi được ở bên ba mà.

 

– Nhưng con thiệt thòi… Thời đó ba hư quá, chỉ biết ăn chơi mà không lo được gì cho con… chuyện học hành không đến nơi đến chốn… Tha lỗi cho ba…

 

Tôi khóc nức nở lên:

 

– Không bao giờ ba có lỗi với con hết. Quãng đời thơ ấu ấy con thương nhớ mãi cho tới bây giờ.

 

Đôi môi khô héo của Ba cố mỉm cười, ba không còn sức để nói thêm gì nữa. Ba tôi thiêm thiếp đi vào hôn mê. Buổi tối ba tôi đã vĩnh viễn ra đi trước sự chứng kiến của những người thân vây quanh. Má Hoa là người đầu tiên vuốt mắt cho ba, người đàn ông, người chồng mà má đã hết lòng yêu thương.

 

Khi đến phiên tôi vuốt mắt cho ba, nhìn khuôn mặt ba thanh thản, tôi tin là ba đã vui lòng, vì ba biết chắc rằng vợ con đã yêu thương ba, kể cả tôi, đứa con gái gần gũi với ba qua đoạn đường ấu thơ nghèo khó nhất.

 

Ba Giang, ba Giang Hồ của tôi vẫn là cái tên đẹp mà tôi yêu quý mãi.

 

Nguyễn Thị Thanh Dương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.