Hôm nay,  

Chà Là

21/08/202210:41:00(Xem: 4107)

Truyện ngắn

chala

Sau chuyến road trip ngắn ngày đến Phố Núi Banff, điểm du lịch nổi tiếng của tiểu bang Alberta của tôi, tôi bỗng bị một cơn sốt cao và nhức đầu, khắp chân tay nổi những vết đỏ, hành hạ mấy ngày trời, cuối cùng tôi phải đến phòng Emergency Room của bệnh viện.

 

Nằm vật vã trong căn phòng bé tí, cũng may là khi test nhanh thì không phải Covid (tôi đã chích đầy đủ hai mũi Pfizer), lòng vẫn ngổn ngang những nghĩ suy và lo lắng, thì có hai cô y tá trẻ bước vào, một cô da trắng, có vẻ là người hướng dẫn cho cô còn lại, nhưng do lúc ấy tôi quá mệt nên không nhớ tên khi cô da trắng giới thiệu họ tên của cả hai. Tôi đoán cô còn lại là người Châu Á hoặc Nam Mỹ, nhưng chắc chắn không phải người Việt vì cái họ lạ hoắc nghe qua là quên ngay. Cô nàng chắc mới ra trường, bây giờ đang được theo cô da trắng thực tập trên bệnh nhân là tôi. Nước da nó ngăm ngăm, mầu nâu bóng như trái chà là, và đôi mắt to đen hiền hoà khiến tôi yên tâm, mỉm cười chào. Đại khái cô Da Trắng nói với tôi, là cô Chà Là sẽ lấy mấy ống máu của tôi mang đi thử, tôi cũng gật gù, đưa cánh tay ra hợp tác. Nó bắt đầu chuẩn bị lấy dây thun, kim chích và mấy ống đựng máu, để sẵn sàng trên cái khay ngay đầu giường. Tôi quay mặt nhìn lên tường chờ đợi, thì hỡi ôi, một cái nhói đau tận xương da vì cô Chà Là đâm cây kim vào cánh tay tôi nghe cái rụp, thiếu điều muốn gẫy cây kim, tôi rú lên theo phản xạ tự nhiên, nó luống cuống lắp bắp mấy từ “sorry, sorry” trong khi cô Da Trắng biểu cô Chà Là làm lại. Tôi cố kìm cơn đau, kiên nhẫn chờ đợi thì một lần nữa, cô Chà Là đâm kim vào tay tôi như muốn xé da xé thịt, dù cô Da Trắng reo lên là đã ok, tôi lại la lên vì quá đau, và trong phút giây đó nếu được đạp chân đá cô Chà Là ra cửa tôi cũng làm ngay cho hết cơn đau và bực tức.

 

Tôi giận hờn không thèm nói một lời dù trước khi bước ra khỏi phòng, Chà Là đã cẩn thận kéo tấm mền cho tôi nằm nghỉ và nhẹ nhàng nói “bye” với nụ cười hối lỗi. Rồi thì mấy viên thuốc Advil đã bắt đầu có hiệu quả. Tôi thấy bớt nhức đầu và lim dim mắt tìm giấc ngủ. Đang mơ màng ngon giấc thì linh tính như có ai đứng bên giường, tôi mở mắt thấy Chà Là ngay bên cạnh. Tôi tỏ vẻ khó chịu, nhủ thầm “đồ vô duyên”, rồi đưa mắt dò hỏi thì nó lại ríu rít xin lỗi vì đã làm tôi dở dang “giấc điệp” và thông báo sẽ gắn dây truyền nước vào cánh tay cho tôi. Tôi nhìn khắp phòng, có ý tìm Da Trắng nhưng chẳng thấy đâu, Chà Là hiểu ý tôi và giải thích chỉ có mình nó làm nhiệm vụ này, vì Da Trắng đang bận với một bệnh nhân khác. Tôi lạnh lùng gật đầu, và cũng quay mặt vào tường như lần trước, với tinh thần có thể sẽ có đau đớn đang chờ đợi, còn Chà Là chắc cũng như tôi, từ kinh nghiệm hồi nãy, nó có vẻ cẩn thận hơn, chậm rãi và tỉ mỉ hơn với từng động tác, cuối cùng thì cũng xong, dù chẳng êm ả gì! Tôi tự hỏi, nó là một đứa yếu tay nghề, vì mới ra trường, hay vì hồi đầu đã sơ xuất làm tôi giận dữ đã làm cho nó hồi hộp rụt rè, nên không làm nổi một việc mà người y tá nào cũng thành thạo? Tôi vẫn chẳng nói với nó nửa lời, tiếp tục… giận hờn, cố tìm lại giấc ngủ, trong khi nó dọn dẹp đồ nghề, khi rời khỏi phòng còn chúc tôi ngủ ngon.

 

Lần này thì tôi ngủ ngon thật, cũng phải một vài tiếng sau mới tỉnh dậy khi trời sập tối, một cô y tá khác tươi cười bước vào đo nhiệt độ và mang cho tôi khay thức ăn. Tôi ăn chút bánh mì với peanut butter, một ly nước cam và thấy tỉnh táo hơn, trả lời mấy câu hỏi của cô y tá thật thoải mái. Tôi chợt nhớ đến Chà Là và thấy mình đã hơi bất công với nó. Chắc tại nó xuất hiện không đúng nơi, đúng lúc, khi mà tôi mới nhập viện trong cơn đau hành hạ, tinh thần còn nhiều bất ổn, lo sợ, mà nó thì lại vụng về gây mất thiện cảm nơi tôi chăng? Giờ thì cơn đau đã bớt nhiều, mọi việc cũng đã ổn định khi bác sĩ cho biết tôi bị insect bites gây nhiễm độc trên da, tôi mới có dịp nhớ lại thái độ của mình với Chà Là và áy náy, tự giận mình vô cùng.

 

Nó nào có lỗi gì đâu chứ, ngoài cái thiếu kinh nghiệm của một cô gái trẻ mới ra trường? Tôi nhớ đến con gái của mình, cũng đang làm y tá ở thành phố bên cạnh. Nó đã kể cho tôi nghe những câu chuyện vui, hoặc chuyện xúc động của các bệnh nhân, nói chung là những kỷ niệm đẹp, vậy mà giờ đây tôi vừa cho Chà Là một “kỷ niệm xấu”, chắc hẳn nó đang buồn lắm.

 

Cả đêm hôm ấy, tôi ngủ chập chờn, chỉ mong mau tới sáng để gặp Chà Là, chắc chắn tôi sẽ mỉm cười trước, (để bù lại cái khuôn mặt chắc là xấu xí, khó ưa của tôi khi nổi giận), rồi sẽ hỏi thăm thân mật và mong nó hiểu cho tâm trạng của tôi.

 

Trời sáng dần, bên ngoài các y tá, bác sĩ bắt đầu rộn ràng qua lại, mới 5 giờ sáng mà họ chộn rộn với những hồ sơ thăm bệnh, đi hỏi han từng giường. Một cô y tá bước vào để đo nhiệt độ và lấy máu một lần nữa theo lệnh của bác sĩ. Cô này có vẻ đứng tuổi, dễ gần gũi, nên tôi tính hỏi về Chà Là nhưng chẳng biết hỏi làm sao khi tôi không hề nhớ tên thật của nó. Còn nếu nói chung chung là người “da màu” làm ở đây chiều qua, thì liệu cô này có biết không?

 

Cứ như thế, suốt một buổi sáng đến tối, khi thì có người mang thuốc và thức ăn trưa vào phòng, khi thì người khác vào chuyển tôi qua phòng chờ CT scan, khi thì cô y tá ban sáng trở lại, tôi luôn hỏi thăm về Chà Là, ai cũng mơ hồ suy đoán, và cho câu trả lời giống nhau, rằng có thể hôm nay nó làm ca chiều, nhưng nó có được phân công vào phòng của tôi hay không thì không chắc, bởi mỗi ngày các y tá được điều đi bất cứ phòng nào mà bác sĩ cần. Tôi lại “ăn không ngon, ngủ không yên”, lòng nặng trĩu, mong chờ Chà Là xuất hiện nơi cửa phòng với đôi mắt sáng, nụ cười mắc cỡ, và làn da nâu mặn mà.

 

Trưa hôm sau, nhóm bác sĩ quyết định cho tôi về, và cho tôi một cái hẹn với một bác sĩ chuyên môn về da để tiếp tuc theo dõi. Chồng tôi đến mang theo một ít quần áo, vật dụng cá nhân cho tôi. Tôi hớn hở dọn dẹp phòng của mình, rồi chần chừ nơi hành lang để tìm Chà Là, chồng tôi đã nghe tôi kể lại câu chuyện, liền kết tội tôi:

 

– Vậy là em racist rồi đấy, thấy nó da màu rồi… ăn hiếp.

 

– Không! Không! Vạn lần không, em xin thề! Vì nó làm em đau, thì dù là da trắng da đen hay da đỏ da vàng, em cũng sẽ vẫn… nổi sùng!!!

 

Hai vợ chồng đi bộ ra ngoài sân bệnh viện, tôi hít một hơi đầy lồng ngực không khí tươi mát sau ba ngày quanh quẩn với mùi cồn, mùi thuốc, mùi… bệnh nhân, thì nghe tiếng bước chân chạy phía sau chúng tôi, dồn dập cùng với tiếng gọi:

 

– Mrs. Nguyen… Mrs. Nguyen!

Chúng tôi cùng quay đầu lại, bất ngờ, vì đó chính là Chà Là. Nó chạy đến, trao cho tôi cái dây charge iphone, hổn hển nói:

 

– Tôi đến phòng chuẩn bị vào ca mới, thì thấy cô để quên cái này, liền chạy theo đưa lại cho cô, vì nó cũng khá mắc tiền, mà về nhà không có nó cũng mệt lắm đấy!

 

Tôi hiểu ra sự tình, khi nãy lúc ra về, tôi đã không nhìn thấy dây charge vì đêm qua tôi cắm nó ở góc tường, khuất phía sau bàn ăn. Cái dây charge chỉ vài chục đồng, nhưng quả thật là phiền phức nếu không có nó để xài.

 

Chồng tôi nhanh nhẩu cám ơn Chà Là, trong khi tôi say sưa ngắm nó: mắt long lanh, nụ cười hiền, và bây giờ dưới ánh sáng bên ngoài, tôi còn thấy hàm răng nó rất trắng và đều đặn, nổi bật giữa làn da nâu làm cho khuôn mặt nó thêm dễ thương dễ mến. Nó nhìn chúng tôi xua tay, ý nói là không có chi, rồi vội bước đi, không quên chúc tôi giữ gìn sức khoẻ và bằng an. Tôi ngỡ ngàng chưa kịp nói gì, chỉ biết nhìn theo dáng nhỏ bé khuất sau cánh cửa kiếng của bệnh viện, trước khi vào trong, nó quay nhìn lại chúng tôi, vẫy tay ríu rít.  Nắng chiều rực rỡ, phản chiếu trên mái tóc nó những vệt sáng và bộ đồng phục y tá nhìn xa như chiếc áo thiên thần, tôi cũng đưa hai tay lên chào lại nó.

 

Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra mình vẫn chưa xin lỗi và hỏi tên thật của Chà Là!

 

Kim Loan

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.