Hôm nay,  

Chơi dzậy, chơi dzới ai?

15/09/202221:29:19(Xem: 4166)
Phiếm

chui-nhau

Thỉnh thoảng chúng ta có nghe những tin tức không “đẹp” về những người Việt ở hải ngoại (ở hải ngoại thôi nhé, chớ ở trong nước thì... đếm hổng xuể), tôi cũng có vài câu chuyện, để… góp buồn.

 

Nhóm vượt biên của chúng tôi đi theo lộ trình của ban tổ chức dẫn đường, lên xe tại Sài Gòn vượt qua biên giới Cambodia nửa đêm, đến  Pnom Penh nghỉ ngơi vài ngày, rồi bắt xe đến thành phố biển Kongpong Som. Đoạn đường này, chúng tôi bị bắt giam hai lần, sau đó ban tổ chức chuộc ra và đưa xuống tàu ra biển trực chỉ Thailand. Khi cả nhóm bị mắc cạn trên bãi đá ong sát bờ biển Thái lúc màn đêm dần xuống, lạnh run, hoảng hốt đốt áo quần giầy dép để kêu cứu, một chú kia đã chửi đổng chủ tàu tổ chức (đang ở Việt Nam) và tuyên bố sẽ không trả sáu cây vàng tiền vượt biên (chú ấy đi với thằng con trai). Cái này lạ à nhe! Nếu đêm đó thuỷ triều dâng lên, nhận chìm cả đám xuống đáy biển chầu Diêm Vương thì không ai phải trả tiền cho chủ tàu, nhưng khi vào được bờ, đến trại tỵ nạn thì phải trả cho người ta chớ. Trước khi đi, đã thoả thuận sòng phẳng, còn chuyện bị bắt ở Cambodia, chuyến hải hành gặp mưa bão, thừa chết thiếu sống là chuyện ngoài ý muốn, nào phải lỗi của chủ tàu? Nay đã vào trại, không bị hải tặc cướp bóc hãm hiếp, thì hà cớ gì đòi quịt tiền người ta?

 

Vài tháng sau khi đến trại, tôi hỏi chú ấy, vẫn câu hỏi cũ là trả tiền chưa, chú ấy gân cổ lên:

 

– Dĩ nhiên là chưa! Vì bây giờ phải đợi thanh lọc xem đậu rớt ra sao. Nếu đậu, qua được Mỹ tôi sẽ trả, còn nếu rớt, hồi hương về Việt Nam thì thôi.

 

Ủa, trại tỵ nạn đóng cửa là chuyện của Cao Uỷ, thanh lọc là việc của Bộ Nội Vụ Thailand, họ đâu có “bà con” gì với chủ tàu, mà kiếm cớ không trả tiền?! Cứ đà này, tôi dám ngờ rằng, nếu chú ấy có đậu thanh lọc, qua Mỹ, sẽ còn nhiều lý do lý trấu để chạy nợ, nào là mới qua chưa ổn định, rồi chờ có việc làm, sau đó phải mua nhà mua xe, chờ con cái học xong, dựng vở gả chồng êm xuôi… Nói theo ngôn ngữ bình dân bàn nhậu hay quán trà đá vỉa hè, thì chú này “chơi cha thiên hạ”. Khi mượn nợ thì năn nỉ ỉ ôi, xong việc rồi phải trả nợ thì xót xa, đứt từng khúc ruột.

 

Chơi dzậy, chơi dzới ai?!

 

Tiếp theo, là chuyện những người từ trại tỵ nạn, khi qua định cư nước thứ ba, được chính phủ cho vay tiền vé máy bay, sau này trả lại. Họ cũng biết chúng ta mới qua còn nhiều khó khăn, nên mỗi tháng gửi thơ đòi nợ rất lịch sự, có thể trả mức thấp nhất là mười đô, hoặc nhiều nhất là năm mươi đô, từ từ mà trả, vài năm cũng xong. Vậy mà có một vài người đi chung chuyến bay với tôi từ trại Thailand qua Canada, hớn hở khoe “thành tích” tuyệt chiêu rằng, mỗi tháng nhận thư đòi nợ là họ xé bỏ vào thùng rác, không quan tâm.

 

Sao vậy? 

 

Tôi thắc mắc, họ đáp tỉnh bơ:

 

– Chính phủ Canada đã bảo lãnh mình qua đây theo diện nhân đạo, trợ cấp hai năm cho mọi chi phí ăn ở, sinh hoạt, mà có cái vé máy bay cũng đòi, nên tui hổng trả!

 

Ngon dữ hen! Luật của nước người ta như thế, xin đừng “tự diễn biến” rồi tự quyết định... xù nợ. Bộ kiếp trước Canada mắc nợ, nên giờ phải rước chúng ta qua, cho trợ cấp, bao luôn mọi thứ từ A đến Z hay sao? Thấy người ta nhân đạo rồi làm tới, thử hỏi nếu còn ở với cộng sản Việt Nam thì có dám không, hay lại líu ríu xếp hàng để nộp tiền cho họ?

 

Một thời gian sau tôi nghe tin, khi mấy người đó xin giấy tờ qua Mỹ chơi, đã bị phía Canada từ chối vì hồ sơ Sở Thuế còn ghi rõ: Nợ tiền vé máy bay chính phủ, “quên” thanh toán!

 

Chơi dzậy, chơi dzới ai?!

 

Cuối cùng là câu chuyện bà chị bên Texas kể lại: Có hai vợ chồng kia, làm chủ mấy tiệm nails, làm ăn thuận lợi khá giả. Họ thường tuyên bố với bạn bè rằng:

 

Tui hả, tui chỉ thích làm móng cho khách da trắng, vì dân đó... thơm tho, sạch sẽ và rộng rãi . Hễ có khách da màu, thì tui cũng đành phải tiếp, nhưng vừa làm vừa nín thở  bởi “đám đó” hôi hám, nghèo và tào lao.

 

Trời! Màu da nào cũng có người này người kia chớ, sao lại vơ đũa cả nắm thế! Hơn nữa đã sống ở xứ Mỹ này thì không nên kỳ thị ai hết á, nhất là qua màu da, qua vẻ bên ngoài, áo quần đồ hiệu xe sang...

 

Nhưng họ vẫn phớt lờ lời góp ý của người xung quanh. Vì thế, sau một thời gian gom góp được nhiều tiền, họ liền từ giã khu nhà Việt Nam mà họ đã sống nhiều năm từ thuở hàn vi với cộng đồng người Việt, vì họ chê khu nhà cũ với người đồng hương là “nhiều chuyện, hay tò mò, lôm côm”. Họ hãnh diện hớn hở dọn qua khu nhà giàu, mua xe Mercedes sang trọng, hòa nhập với hàng xóm mới là những người giàu có trí thức, nào bác sĩ, luật sư, CEO.

 

Vậy mà chỉ hơn một năm sau, họ lại âm thầm dọn ra khỏi khu nhà giàu sang trọng ấy, hỏi ra mới biết lý do, họ bị chính những người hàng xóm “giàu có và trí thức” ấy phân biệt, kỳ thị!

 

Kim Loan

(9/2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.