Hôm nay,  

Còn trên ghế mục

27/10/202210:08:00(Xem: 3484)
Truyện Ký

Lady-Playing-a-Nguyet-Cam
Tranh Mai Trung Thứ.

                         

Ta là lữ khách

Hờn thân thế.

Lòng nặng u hoài

Giữa tịch liêu…

(Viễn Châu)

                                                                                 

Tôi nhớ rõ ràng như chỉ mới hôm qua. Những năm còn bé nhỏ ở tuổi 12. Có một chiều, tôi ôm con gà đứng khóc tỉ tê, khóc sướt mướt, dai dẳng trước căn lều của người hàng xóm. Đã qua không biết bao nhiêu thăng trầm, trôi nổi của những tháng năm dài… Vậy mà sự rúng động trong trái tim bé nhỏ của tôi vẫn y nguyên, vẫn còn như rất mới.

 

Trong một lần theo Ngoại về vùng quê vui Tết. Một sáng mờ sương, vẫn còn ngái ngủ, tôi dụi mắt ngồi nhìn đàn gà nhỏ ríu rít theo Mẹ tìm mồi. Tiếng gọi khàn đục nhưng chắt chiu lo lắng của Gà, gọi đàn con bé dại đang chạy luýnh quýnh, lúp xúp.Tôi nhìn thấy là lạ, hay hay.

 

Thêm chút âm thanh mỏng như tơ của mấy chú Gà nhỏ óng ánh vàng, làm tôi say sưa, ngẩn ngơ nhìn với những yêu thương lạ lùng. Suốt mấy ngày Tết tôi quanh quẩn, đi theo đàn gà nhiều hơn những thú vui khác, với bà con Nội Ngoại.

 

Trở lại Sài Gòn, tôi vòi vĩnh xin BaMẹ cho… nuôi gà. Cả nhà nhìn tôi cười như nhìn một con bé kỳ khôi, suốt ngày cứ lằng nhằng đòi toàn những điều vớ vẩn. Nhưng tôi cương quyết, tôi làm nư, và tôi ăn vạ…Dỗ dành rồi hăm he mãi không xong. Mẹ tôi chịu thua, hứa sẽ cho nuôi gà nếu tôi thi đậu vô Trưng Vương, trong mùa tuyển thi sắp tới.

 

Chuyện đèn sách của tôi, bỗng dưng chẳng có mục đích gì xa vời như chuyện lên cung trăng, hay tưởng còn phải khó khăn hơn thế. Đơn giản lại chỉ là mấy con gà… Vậy mà tôi đã chăm chỉ hơn, lo lắng hơn và có đêm còn lâm râm, thì thầm với rất nhiều lời cầu nguyện. Sau ngày thi, tôi về cộng trừ nhân chia ra hết điểm của những bài đã nộp. Rồi đoán quàng đoán xiên, tên tôi thế nào cũng phải nằm trong danh sách được tuyển chọn.

 

Tôi mơ màng trong đêm, giấc ngủ vang vọng có tiếng gà chim chíp với những bước chân ríu rít lăng quăng... Tôi xếp đặt trong đầu chỗ nào để gà không bị lạnh, chỗ nào để tôi ngồi học bài mà vẫn thấy gà lẫm đẫm, lao xao...

 

Ngày coi kết quả, dù dò đi dò lại đến mấy lần, vẫn không thấy tên mình trên những tờ niêm yết dễ ghét của Trưng Vương. Tôi vùng vằng bước ra khỏi cổng trường. Những bước chân hụt hẫng tôi đi, như xa lìa, như cách biệt  khỏi chiếc lồng gà mơ ước.

 

Tôi khóc ròng trên đường về nhà.

 

Tôi không phí hoài những giọt nước mắt khóc cho chữ nghĩa, cũng chẳng cần khóc làm gì cho sự xa vời của tương lai...Tôi khóc, chỉ vì sẽ không được nghe tiếng kêu chim chíp của những chú gà con dễ thương, bé bỏng.

 

Khi Ba Mẹ hiểu ra tôi nhớ đàn gà đến thẫn thờ. Biết tánh tôi bướng bỉnh, đã thích gì thì thích cho bằng được. Và chỉ có chết, chắc tôi mới chịu đầu hàng, để không còn mè nheo, khóc lóc...

 

Một chiều tan học, Sài Gòn mưa rất lớn với sấm sét đầy trời, không biết linh cảm điều gì, tôi đã không tìm chỗ trú mưa. Sốt ruột, tôi đạp xe băng qua những làn mưa rơi tầm tã, dù môi tôi lập cập lạnh, và tay run làm chiếc xe lảo đảo. Chẳng biết có gì như thúc hối tôi, phải vội vàng. Run rẩy đặt xe trước sân nhà. Sách vở ướt, áo ướt và tóc ướt, tôi được Mẹ cho coi Gà cùng với 4 đứa con nhỏ. Nước từ tóc tôi nhỏ giọt, rơi ướt hết trên lưng đẹp mượt mà của những con gà cũng đang lóng cóng, lạnh căm.

 

... Ta biết về đâu, biết ở đâu…

Lạnh hồn ta,

Theo.

Ngọn gió đông tàn…

 

Những chiều cuối tuần nghỉ học, tôi quấn quít với Ông bên cây đàn mà Ông gọi là “Đàn Kìm”. Tôi không thích âm thanh “kìm” chút nào, dù nó đã được đặt tự muôn đời cho tên của một tiếng đàn líu lo, nhưng nghe đầy sầu não, âm u. Tôi đổi là: “Trăng”. Bởi thấy thân đàn tròn như một bóng trăng…(Nguyệt cầm). Ông dựng căn lều nhỏ xiêu vẹo, ngay phía sau Nhà Nguyện trong xóm. Vị Linh Mục đã bao lần muốn dỡ lều, vì nó làm mất đi vẻ thẩm mỹ và trang trọng của một nơi cung kính. Nhưng Giáo Dân thương Ông, năn nỉ...Và Ông nương náu một mình nơi đây, như thế.

 

Tôi, nhỏ xíu. Thích ngồi nghe Ông đàn và ca vọng cổ. Ông và tôi hay ngồi trên một chiếc ghế dài đã mục, rão rệu lung lay như sắp gẫy, trước hiên lều. Răng Ông rụng gần hết nên phát âm không bao giờ tròn chữ, nhưng Ông ca với một giọng chân phương, ngân nga đầy truyền cảm, những câu vọng cổ hay vô cùng của Nghệ Sĩ Viễn Châu.

 

Và, tất cả chỉ bởi tiếng đàn.

 

Chính âm thanh não nùng của tiếng đàn, đã làm tuổi nhỏ tôi sa vào những man man buồn bã, mà tôi không hiểu phải gọi là gì?

 

Có lần, khi tôi sắp phải khóc vì tiếng đàn rầu rĩ, thê lương. Ngước đôi mắt ngây thơ tôi hỏi: “Có khi nào Ông tính ca cho Bé nghe, những lời vui vui hơn chút xíu không?” Ông chỉ cười, môi cười móm mém. Tôi chẳng hiểu ý nghĩa gì, qua nụ cười bí mật của Ông.

 

...Đi về đâu?

Khi sương lan…

...Đi về đâu?

Khi trăng tan…

 

Ông không có gì để giải sầu. Bên cạnh những câu vọng cổ u hoài, chỉ là chai đế trắng, rót trong vài chiếc ly quên rửa, và những... trái cóc.

 

*

 

Công viêc “chăn nuôi” của tôi chỉ là ngồi nâng niu, vuốt ve những chú gà bé nhỏ. Phần cho ăn, và dọn dẹp thì anh tôi phải chịu trách nhiệm. Không biết vụng về ra sao mà mấy gà nhỏ lần lượt chết hết. Trong một sáng Chủ Nhật, anh tôi hăm dọa, không còn muốn bận rộn vì Gà của tôi nữa. Anh muốn… Mẹ nấu món cà ri. Ngay lập tức tôi dỗi, bỏ cơm trưa, không cơm chiều. Sợ hãi, đêm đó tôi còn muốn mang gà vô mùng ngủ chung, như một sự cương quyết bảo vệ. Nhưng Mẹ tôi nhất định không cho. Tôi thương Gà, nhưng chợt có một hôm, tôi nghĩ đến chuyện mang Gà tặng Ông.

 

Lời hăm dọa của anh tôi, phần nào đã đưa tôi đến quyết định đau lòng này. Con Gà của tôi, thà nằm trên mâm cơm hiu hắt của Ông. Ít nhất, nó sẽ thay cho những trái cóc tội nghiệp, để sẽ là một bữa ăn thịnh soạn hiếm hoi. Chứ không thể nào được đặt trên bàn ăn nhà, trong sự thích thú, đắc thắng vì từ nay sẽ được nhàn nhã, của anh tôi…

 

Suốt cả tháng, tôi cứ nấn ná, tiếc xót và đắn đo. Tuần nào, sau khi ngồi nghe Ông đàn, và ca những câu vọng cổ buồn ê buồn ẩm xong. Trên đường về, tôi đều bùi ngùi hẹn sẽ mang Gà tặng Ông, ngày mai.

 

Ngày mai, rồi ngày mai... Sự chia xa với Gà sao mà khó khăn, đầy quyến luyến?

 

*

 

Tôi ôm Gà trong cảm giác xót xa của một lần ly biệt. Nhưng nhớ tới mấy trái cóc, những mồi nhắm  đáng thương của Ông, lòng tôi dạt dào chút niềm an ủi.

 

Tôi đang mang đến tặng Ông món quà đặc biệt nhất, món quà mà phải qua bao nhiêu là tranh đấu khó khăn, và đã trả giá bằng mọi thứ mặc cả với Mẹ, tôi mới có được. Đứng trước lều Ông, hôm nay còn có lao xao vài ba thiên hạ. Loáng thoáng tôi nghe nho nhỏ lời ai nói... Ông đã ra đi đêm qua. Một mình.

Tôi sợ hãi, quay bước như muốn vùng chạy, trốn xa khỏi căn lều. Căn lều vẫn có Ông, nhưng chỉ qua một đêm, sao chợt đã rất im lìm, lạnh lẽo. Và, đã rất khác.

 

Tay ôm Gà mà toàn thân run rẩy. Tôi oà khóc.

 

Tôi khóc cho tiếng đàn lan man buồn thảm. Khóc cho giọng ca móm mém, đã hát ra trăm lời ai oán. Khóc vì rồi đây, Ông sẽ chẳng còn có bao giờ ngồi với tôi, đàn ra những khúc bi ai, trên chiếc ghế nghèo nàn, rục rã.

 

Chiếc ghế mục, tượng trưng cho một cuộc sống tả tơi, âm thầm, và cô quạnh.

 

Tiện thể, tôi rên rỉ luôn cho sự trễ tràng. Tôi ghét mình đã cứ ráng nấn níu, tiếc nuối món quà mà cho đến hôm nay, tôi vẫn còn đang ôm khư khư nó trong tay…

 

Chợt ai đó trong Nhà Nguyện bước ra, tay khơi khơi, vung vẩy cây đàn.

 

Cây đàn, như có một sức hút huyền bí. Tôi vừa khóc, vừa năn nỉ xin đổi lấy con gà yêu dấu. Chẳng thắc mắc, Chú trao “Trăng” cho tôi.

 

Tay không còn ôm Gà, tôi ôm đàn trong đôi tay lạnh giá và khóc như mưa. Tôi đi lang thang, tôi đi quanh co, và lạc lối…Tôi cứ lơ mơ bước, như đang đi trong một giấc mộng hãi hùng. Mụ mẫm, tôi đã chẳng còn nhớ ra, đâu mới là nhà.


Chập chờn, trong những bước chân vấp váp của tôi, là lời ca vừa mới hôm qua của Ông.

 

...có một ánh đèn

Thấp thoáng trong sương

Ai đi đâu.

Trong đêm vắng,

Canh trường…

 

Tiếng đàn cùng lời ca, đã làm trái tim bé bỏng của tôi vút bay.


Tôi bay mông lung, tôi bay mịt mù xa tắp…Rồi ngã sấp xuống những nỗi buồn dễ sợ.

 

LêChiềuGiang

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.