Hôm nay,  

Còn trên ghế mục

27/10/202210:08:00(Xem: 3495)
Truyện Ký

Lady-Playing-a-Nguyet-Cam
Tranh Mai Trung Thứ.

                         

Ta là lữ khách

Hờn thân thế.

Lòng nặng u hoài

Giữa tịch liêu…

(Viễn Châu)

                                                                                 

Tôi nhớ rõ ràng như chỉ mới hôm qua. Những năm còn bé nhỏ ở tuổi 12. Có một chiều, tôi ôm con gà đứng khóc tỉ tê, khóc sướt mướt, dai dẳng trước căn lều của người hàng xóm. Đã qua không biết bao nhiêu thăng trầm, trôi nổi của những tháng năm dài… Vậy mà sự rúng động trong trái tim bé nhỏ của tôi vẫn y nguyên, vẫn còn như rất mới.

 

Trong một lần theo Ngoại về vùng quê vui Tết. Một sáng mờ sương, vẫn còn ngái ngủ, tôi dụi mắt ngồi nhìn đàn gà nhỏ ríu rít theo Mẹ tìm mồi. Tiếng gọi khàn đục nhưng chắt chiu lo lắng của Gà, gọi đàn con bé dại đang chạy luýnh quýnh, lúp xúp.Tôi nhìn thấy là lạ, hay hay.

 

Thêm chút âm thanh mỏng như tơ của mấy chú Gà nhỏ óng ánh vàng, làm tôi say sưa, ngẩn ngơ nhìn với những yêu thương lạ lùng. Suốt mấy ngày Tết tôi quanh quẩn, đi theo đàn gà nhiều hơn những thú vui khác, với bà con Nội Ngoại.

 

Trở lại Sài Gòn, tôi vòi vĩnh xin BaMẹ cho… nuôi gà. Cả nhà nhìn tôi cười như nhìn một con bé kỳ khôi, suốt ngày cứ lằng nhằng đòi toàn những điều vớ vẩn. Nhưng tôi cương quyết, tôi làm nư, và tôi ăn vạ…Dỗ dành rồi hăm he mãi không xong. Mẹ tôi chịu thua, hứa sẽ cho nuôi gà nếu tôi thi đậu vô Trưng Vương, trong mùa tuyển thi sắp tới.

 

Chuyện đèn sách của tôi, bỗng dưng chẳng có mục đích gì xa vời như chuyện lên cung trăng, hay tưởng còn phải khó khăn hơn thế. Đơn giản lại chỉ là mấy con gà… Vậy mà tôi đã chăm chỉ hơn, lo lắng hơn và có đêm còn lâm râm, thì thầm với rất nhiều lời cầu nguyện. Sau ngày thi, tôi về cộng trừ nhân chia ra hết điểm của những bài đã nộp. Rồi đoán quàng đoán xiên, tên tôi thế nào cũng phải nằm trong danh sách được tuyển chọn.

 

Tôi mơ màng trong đêm, giấc ngủ vang vọng có tiếng gà chim chíp với những bước chân ríu rít lăng quăng... Tôi xếp đặt trong đầu chỗ nào để gà không bị lạnh, chỗ nào để tôi ngồi học bài mà vẫn thấy gà lẫm đẫm, lao xao...

 

Ngày coi kết quả, dù dò đi dò lại đến mấy lần, vẫn không thấy tên mình trên những tờ niêm yết dễ ghét của Trưng Vương. Tôi vùng vằng bước ra khỏi cổng trường. Những bước chân hụt hẫng tôi đi, như xa lìa, như cách biệt  khỏi chiếc lồng gà mơ ước.

 

Tôi khóc ròng trên đường về nhà.

 

Tôi không phí hoài những giọt nước mắt khóc cho chữ nghĩa, cũng chẳng cần khóc làm gì cho sự xa vời của tương lai...Tôi khóc, chỉ vì sẽ không được nghe tiếng kêu chim chíp của những chú gà con dễ thương, bé bỏng.

 

Khi Ba Mẹ hiểu ra tôi nhớ đàn gà đến thẫn thờ. Biết tánh tôi bướng bỉnh, đã thích gì thì thích cho bằng được. Và chỉ có chết, chắc tôi mới chịu đầu hàng, để không còn mè nheo, khóc lóc...

 

Một chiều tan học, Sài Gòn mưa rất lớn với sấm sét đầy trời, không biết linh cảm điều gì, tôi đã không tìm chỗ trú mưa. Sốt ruột, tôi đạp xe băng qua những làn mưa rơi tầm tã, dù môi tôi lập cập lạnh, và tay run làm chiếc xe lảo đảo. Chẳng biết có gì như thúc hối tôi, phải vội vàng. Run rẩy đặt xe trước sân nhà. Sách vở ướt, áo ướt và tóc ướt, tôi được Mẹ cho coi Gà cùng với 4 đứa con nhỏ. Nước từ tóc tôi nhỏ giọt, rơi ướt hết trên lưng đẹp mượt mà của những con gà cũng đang lóng cóng, lạnh căm.

 

... Ta biết về đâu, biết ở đâu…

Lạnh hồn ta,

Theo.

Ngọn gió đông tàn…

 

Những chiều cuối tuần nghỉ học, tôi quấn quít với Ông bên cây đàn mà Ông gọi là “Đàn Kìm”. Tôi không thích âm thanh “kìm” chút nào, dù nó đã được đặt tự muôn đời cho tên của một tiếng đàn líu lo, nhưng nghe đầy sầu não, âm u. Tôi đổi là: “Trăng”. Bởi thấy thân đàn tròn như một bóng trăng…(Nguyệt cầm). Ông dựng căn lều nhỏ xiêu vẹo, ngay phía sau Nhà Nguyện trong xóm. Vị Linh Mục đã bao lần muốn dỡ lều, vì nó làm mất đi vẻ thẩm mỹ và trang trọng của một nơi cung kính. Nhưng Giáo Dân thương Ông, năn nỉ...Và Ông nương náu một mình nơi đây, như thế.

 

Tôi, nhỏ xíu. Thích ngồi nghe Ông đàn và ca vọng cổ. Ông và tôi hay ngồi trên một chiếc ghế dài đã mục, rão rệu lung lay như sắp gẫy, trước hiên lều. Răng Ông rụng gần hết nên phát âm không bao giờ tròn chữ, nhưng Ông ca với một giọng chân phương, ngân nga đầy truyền cảm, những câu vọng cổ hay vô cùng của Nghệ Sĩ Viễn Châu.

 

Và, tất cả chỉ bởi tiếng đàn.

 

Chính âm thanh não nùng của tiếng đàn, đã làm tuổi nhỏ tôi sa vào những man man buồn bã, mà tôi không hiểu phải gọi là gì?

 

Có lần, khi tôi sắp phải khóc vì tiếng đàn rầu rĩ, thê lương. Ngước đôi mắt ngây thơ tôi hỏi: “Có khi nào Ông tính ca cho Bé nghe, những lời vui vui hơn chút xíu không?” Ông chỉ cười, môi cười móm mém. Tôi chẳng hiểu ý nghĩa gì, qua nụ cười bí mật của Ông.

 

...Đi về đâu?

Khi sương lan…

...Đi về đâu?

Khi trăng tan…

 

Ông không có gì để giải sầu. Bên cạnh những câu vọng cổ u hoài, chỉ là chai đế trắng, rót trong vài chiếc ly quên rửa, và những... trái cóc.

 

*

 

Công viêc “chăn nuôi” của tôi chỉ là ngồi nâng niu, vuốt ve những chú gà bé nhỏ. Phần cho ăn, và dọn dẹp thì anh tôi phải chịu trách nhiệm. Không biết vụng về ra sao mà mấy gà nhỏ lần lượt chết hết. Trong một sáng Chủ Nhật, anh tôi hăm dọa, không còn muốn bận rộn vì Gà của tôi nữa. Anh muốn… Mẹ nấu món cà ri. Ngay lập tức tôi dỗi, bỏ cơm trưa, không cơm chiều. Sợ hãi, đêm đó tôi còn muốn mang gà vô mùng ngủ chung, như một sự cương quyết bảo vệ. Nhưng Mẹ tôi nhất định không cho. Tôi thương Gà, nhưng chợt có một hôm, tôi nghĩ đến chuyện mang Gà tặng Ông.

 

Lời hăm dọa của anh tôi, phần nào đã đưa tôi đến quyết định đau lòng này. Con Gà của tôi, thà nằm trên mâm cơm hiu hắt của Ông. Ít nhất, nó sẽ thay cho những trái cóc tội nghiệp, để sẽ là một bữa ăn thịnh soạn hiếm hoi. Chứ không thể nào được đặt trên bàn ăn nhà, trong sự thích thú, đắc thắng vì từ nay sẽ được nhàn nhã, của anh tôi…

 

Suốt cả tháng, tôi cứ nấn ná, tiếc xót và đắn đo. Tuần nào, sau khi ngồi nghe Ông đàn, và ca những câu vọng cổ buồn ê buồn ẩm xong. Trên đường về, tôi đều bùi ngùi hẹn sẽ mang Gà tặng Ông, ngày mai.

 

Ngày mai, rồi ngày mai... Sự chia xa với Gà sao mà khó khăn, đầy quyến luyến?

 

*

 

Tôi ôm Gà trong cảm giác xót xa của một lần ly biệt. Nhưng nhớ tới mấy trái cóc, những mồi nhắm  đáng thương của Ông, lòng tôi dạt dào chút niềm an ủi.

 

Tôi đang mang đến tặng Ông món quà đặc biệt nhất, món quà mà phải qua bao nhiêu là tranh đấu khó khăn, và đã trả giá bằng mọi thứ mặc cả với Mẹ, tôi mới có được. Đứng trước lều Ông, hôm nay còn có lao xao vài ba thiên hạ. Loáng thoáng tôi nghe nho nhỏ lời ai nói... Ông đã ra đi đêm qua. Một mình.

Tôi sợ hãi, quay bước như muốn vùng chạy, trốn xa khỏi căn lều. Căn lều vẫn có Ông, nhưng chỉ qua một đêm, sao chợt đã rất im lìm, lạnh lẽo. Và, đã rất khác.

 

Tay ôm Gà mà toàn thân run rẩy. Tôi oà khóc.

 

Tôi khóc cho tiếng đàn lan man buồn thảm. Khóc cho giọng ca móm mém, đã hát ra trăm lời ai oán. Khóc vì rồi đây, Ông sẽ chẳng còn có bao giờ ngồi với tôi, đàn ra những khúc bi ai, trên chiếc ghế nghèo nàn, rục rã.

 

Chiếc ghế mục, tượng trưng cho một cuộc sống tả tơi, âm thầm, và cô quạnh.

 

Tiện thể, tôi rên rỉ luôn cho sự trễ tràng. Tôi ghét mình đã cứ ráng nấn níu, tiếc nuối món quà mà cho đến hôm nay, tôi vẫn còn đang ôm khư khư nó trong tay…

 

Chợt ai đó trong Nhà Nguyện bước ra, tay khơi khơi, vung vẩy cây đàn.

 

Cây đàn, như có một sức hút huyền bí. Tôi vừa khóc, vừa năn nỉ xin đổi lấy con gà yêu dấu. Chẳng thắc mắc, Chú trao “Trăng” cho tôi.

 

Tay không còn ôm Gà, tôi ôm đàn trong đôi tay lạnh giá và khóc như mưa. Tôi đi lang thang, tôi đi quanh co, và lạc lối…Tôi cứ lơ mơ bước, như đang đi trong một giấc mộng hãi hùng. Mụ mẫm, tôi đã chẳng còn nhớ ra, đâu mới là nhà.


Chập chờn, trong những bước chân vấp váp của tôi, là lời ca vừa mới hôm qua của Ông.

 

...có một ánh đèn

Thấp thoáng trong sương

Ai đi đâu.

Trong đêm vắng,

Canh trường…

 

Tiếng đàn cùng lời ca, đã làm trái tim bé bỏng của tôi vút bay.


Tôi bay mông lung, tôi bay mịt mù xa tắp…Rồi ngã sấp xuống những nỗi buồn dễ sợ.

 

LêChiềuGiang

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.