Hôm nay,  

Sài Gòn cà phê, cà phê Sài Gòn

09/01/202320:51:00(Xem: 4498)
Tùy bút

QUÁN CÀ PHÊ  LA PAGODA
Café La Pagode, Sài Gòn năm xưa.

Cũng quán nhỏ, nhạc buồn, réo rắt làm rung động tâm hồn người viễn xứ, tha hương. Bên ly cà phê đen, nhỏ giọt từ cái “phin” Inox cầu kỳ, sang trọng. Bất chợt nhớ những câu thơ Bùi Giáng: “Cà phê vô tận mưa nguồn/ Thành thân vô lượng vui buồn gọi nhau...” và “Cà phê nhớ buổi hôm nay/ Chén trà xin hẹn ngày rày năm sau”. Lòng bỗng nôn nao nhớ... một góc phố Sài Gòn, một quán cà phê quen thuộc, để hú gọi bạn bè, cùng ngồi ôn lại kỷ niệm của thời xa xưa, xa lăng lắc...

 

Cà phê Sài Gòn, Sài Gòn cà phê, không biết bắt đầu có từ khi nào? Khi những người Hoa lánh nạn Mãn Thanh, trôi giạt đến Sài Gòn với cái vợt và cái siêu sành pha cà phê. Hoặc từ bước đường viễn chinh của những người lính Phú Lang Sa, khi vào xâm lược xứ Nam kỳ và chiếm đóng Sài Gòn? Dường như chưa có sách báo nào phân định rõ ràng cụ thể. Chỉ biết Sài Gòn bắt đầu có những quán cà phê từ rất lâu rồi. Khi mà người ghiền cà phê, đàn ông cũng như đàn bà, mới sáng sớm đã tìm ra quán, ngồi co hai chân trên ghế theo kiểu “nước lụt”, vừa xì xụp, húp từng miếng cà phê nóng hổi đựng trên một cái dĩa nhỏ, vừa râm ran nói chuyện, bàn tính công việc làm ăn trong ngày, hay ngồi nhả từng ngụm khói thuốc lá, ngẫm ngợi chuyện đời, chuyện thế sự buồn vui.

 

Miền Nam nói chung, Sài Gòn nói riêng, thuở ấy, cũng đã có nhiều quán cà phê, nhưng phần lớn tập trung ở cạnh chợ búa, hoặc những khu ngã tư, ngã năm, đông đúc người qua lại, chưa tràn lan khắp hang cùng, ngõ hẻm như bây giờ. Quán sang trọng, ở phố xá, phần nhiều do người Pháp hoặc người ngoại quốc làm chủ. Còn những quán rẻ tiền, bình dân, đa phần do người Hoa làm chủ, một số ít là của người Việt. Quán lúc đầu cũng ít có nhạc, vì trong thập niên những năm 30, 40 của thế kỷ trước, radio, máy nhạc quay đĩa mới bắt đầu có và cũng rất mắc tiền, phải đến sau này, radio cùng máy cassette thâu, phát âm nhạc, thịnh hành, thì hầu như quán, tiệm cà phê nào cũng trang bị, để phát cho khách đến nghe.

 

Lúc ban đầu mới uống cà phê, khách uống chủ yếu là thành phần công chức, binh lính và những người lao động bình dân, phải thức khuya, dậy sớm. Cần có ly cà phê để tỉnh táo làm việc, dần dần lan đến các học sinh, sinh viên, phải thức khuya để học thi hay ôn luyện. Thành phần “nam thanh nữ tú” cần có ly cà phê để... tỏ tình, hay tâm sự, chưa thấy có vào đầu những năm 50 của thế kỷ trước. Bởi lẽ, ngoại trừ các quán cà phê sang trọng của người ngoại quốc, ở gần các khu phố, hay khách sạn lớn, thì phần đông các quán cà phê, ở gần quán chợ, khung cảnh chật chội, bề bộn. Cà phê lúc ấy, chủ yếu là cà phê “vợt”, hay còn gọi là cà phê “vớ”, cà phê “tất”, hay được pha sẵn, ủ ấm trong các cái siêu, giống như siêu thuốc Bắc, nhiều người thường gọi là “cà phê kho”, và để uống cà phê nóng, người ta đổ cà phê vào những cái dĩa nhỏ và húp từng ngụm nhỏ. Cà phê gồm: Cà phê đen hay còn gọi là “xây chừng”, cà phê đen lớn là “Tài chừng”, cà phê sữa nhỏ là “Xây nại”, lớn là “Tài nại” hay “bạc xỉu” là sữa nhiều hơn cà phê, theo cách gọi của các quán người Hoa, phần đông uống nóng. Ai thích lạnh thì bỏ thêm đá, gọi là cà phê đá hay cà phê sữa đá. Cà phê thuở ấy, vốn cũng là những hạt cà phê Moka, Arabica, Robusta... thường được người Pháp mang vào Việt Nam, hay nhập từ Brazil hay từ các nước thuộc địa khác, và được phân thành từng loại hảo hạng, hạng nhất, nhì... khác nhau, được rang và pha chế theo những kinh nghiệm của từng chủ quán cà phê, để hạ giá thành, người ta còn trộn thêm nhiều “phụ gia” khác, kể cả đậu nành, bắp rang, hay... cơm cháy (?). Và thường bán ở các quán bình dân kể cả của người Hoa, hay người Việt. Người uống lâu ngày cũng thấy quen và nghiện, kể cũng lạ?

 

Đến đầu những năm 1960, Sài Gòn ngày càng mở rộng và phát triển và là trung tâm, đầu mối giao lưu của miền Nam lúc bấy giờ, những đồn điền cà phê, do người Pháp lập ra ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, Cao nguyên Trung phần, đặc biệt là Ban Mê Thuột cũng đã mở rộng, và cung cấp một số lượng lớn cà phê ngon, rẻ, các quán cà phê đã dần dần có mặt ở khắp nơi. Nơi nào có khu dân cư, thì nơi đó có quán cà phê, cho dù là mặt tiền đường lớn, hay trong hẻm chật, người đông. Điều mà người Sài Gòn bắt đầu quan tâm là “chất lượng” cà phê ở đó, bên cạnh là khung cảnh và cung cách phục vụ của quán. Cà phê lúc này đã được nâng lên thành  “mốt thưởng thức” sau những giây phút học tập hay làm việc mỏi mệt, căng thẳng, không phải chỉ để chống buồn ngủ như trước đây nữa. Và một điều quen thuộc nữa, là uống cà phê, phải hú gọi những bạn bè thân thuộc, cùng gu để ngồi “tám chuyện” hay kể cả đãi khách, bàn tính chuyện làm ăn. Ly cà phê đã trở thành “đầu câu chuyện”!

 

Bên cạnh những quán cà phê chất lượng, pha chế hạp ý với gu của khách và cũng có mặt lâu đời nhất ở Sài Gòn, phải kể đến như quán “Cheo Leo Cafe”, nằm tuốt sâu trong hẻm 109 Nguyễn Thiện Thuật, quận 3 Sài Gòn, có mặt gần 90 năm nay, nhưng lúc nào cũng đông khách đến thưởng thức ly cà phê đen đậm đà hương vị, cũng trên con đường tương đối ngắn này, còn có quán “Cà Phê Năm Dưỡng”, nơi chuyên pha chế ly cà phê sữa đá “hút hồn” người. Hay như ở Phú Nhuận, “cà phê vợt” nổi tiếng nằm trên con đường Phan Đình Phùng. Còn ở Tân Phước, Chợ Lớn thì có quán “Cà Phê Chú Thanh”, bình dân, nhưng cũng rất được nhiều người tìm đến. Để tồn tại và phát triển, cũng là cách thức cạnh tranh, trong một thị trường sôi động, đầy tiềm năng của một đô thành lớn nhất miền Nam, nhiều quán cà phê sắp đặt một không gian riêng trữ tình để thu hút tầng lớp “nam thanh, nữ tú” của Sài Gòn, gồm cây cảnh, và không quên trang bị những máy phát nhạc tân tiến thời bấy giờ như Akai của Nhật, để phát nhạc theo yêu cầu của khách. Có nơi còn trang bị hẳn một giàn nhạc sống, mời cả những ca sĩ nổi tiếng đến hát. Quán cà phê, còn thêm những thức uống giải khát thời thượng của lớp trẻ bấy giờ như Ya-ua, Coca và rượu nhẹ để khách không ghiền cà phê uống, như quán “Cafe Thằng Bờm” nằm ở góc đường Nguyễn Thái Học, Phạm Ngũ Lão, quán cà phê “Hầm Gió’ trên đường Võ Tánh, nơi ca sĩ Thanh Lan, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng thường xuyên xuất hiện hay quán “Cây Tre” của ca sĩ Khánh Ly...

 

Song con đường Catinat/ Tự Do, nay là đường Đồng Khởi, mới là nơi tập trung nhiều quán cà phê “sang trọng” nhất Sài Gòn thuở ấy, với hàng loạt quán cà phê đã trở thành “huyền thoại” trong tâm trí người Sài Gòn xưa như các quán Continental, Brodard, Imperial, Givral, La Pagode... Quán qui tụ những bậc trung lưu, hay công chức cao cấp, người ngoại quốc, đặc biệt giới nhà báo của Sài Gòn và quốc tế cùng anh em văn nghệ sĩ nổi tiếng, cụ thể là quán La Pagode, hay còn gọi là quán “Cái Chùa”, chủ yếu tập trung những phóng viên ký giả của các báo Sài Gòn và nước ngoài. Những văn nghệ sĩ danh tiếng thời bấy giờ cũng thường đến đây như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Côn, Du Tử Lê, Duyên Anh, v.v... Họ đến đây, để đọc báo, trao đổi tin tức, thậm chí... “ngồi đồng” để viết bài hay sáng tác, cùng với ly cà phê ưng ý, có khi là ly Whisky hay ly bia sủi bọt.

 

Phải chăng, cà phê, cùng những quán cà phê ở Sài Gòn, đã làm nên một phong cách và văn hóa của người Sài Gòn trước đây: Hào hoa, phóng khoáng, và cũng rất văn nghệ trong việc làm và cả cách sống của một thời, dù có lúc, đêm đêm, những ánh hỏa châu vẫn còn rực sáng đâu đó ở vùng ngoại thành xôi đậu.

 

Sài Gòn cà phê, cà phê Sài Gòn hình như mỗi ngày, mỗi tăng dần các quán cà phê, theo tốc độ dân số ngày càng đông và càng tăng ở Sài Gòn trong thời bình. Nhắc đến cà phê, là nhắc đến một chỗ ngồi quen thuộc, một không gian có thể ồn ã, có thể yên tĩnh riêng tư cùng với bạn bè, hay người thân thiết để mà tâm sự và nhớ...

 

Trần Hoàng Vy

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.