Hôm nay,  

Chiếc váy ngày Tết

12/01/202320:42:00(Xem: 2853)
Truyện

ao-dai

Không khí Tết đã rộn ràng cả xóm. Nắng nhẹ nhẹ, gió mơn man và nhạc xuân lan tràn từ radio mọi nhà mọi ngõ. Nhà nhà đều sửa soạn đón xuân về.

 

Tôi và Bích Hợp hẹn nhau buổi chiều đi chợ Bà Chiểu mua sắm vài thứ. Buổi sáng mẹ sai tôi vo đãi mấy kí lô đậu xanh để gói bánh chưng và quậy nồi chè kho. Tôi làm vội vàng vì nghĩ đến Bích Hợp đang chờ. Khi tôi giao thành phẩm mẹ tôi phán:

 

– Chưa sạch còn sót nhiều vỏ  quá.

 

Vỏ đậu xanh còn sót nhiều thật. Tôi vẫn cố cãi mẹ:

 

– Con đãi kỹ lắm rồi, ai làm mà không sót, mẹ cứ soi mói như là dì ghẻ của cô Tấm ấy. Mẹ… thử ngồi đãi mấy kí lô đậu xanh xem.

 

Mẹ nổi cáu:

 

– A, con bé này học đâu ra thói cãi tay đôi với mẹ thế hả?

 

Tuy mắng con nhưng mẹ không bắt tôi làm lại, mẹ ngồi tỉ mỉ nhặt ra những vỏ đậu xanh còn sót. Tôi thích món chè kho của mẹ nấu. tôi tha hồ ăn các loại mứt Tết và không thể thiếu món chè kho ngọt đậm đà. Mẹ nói chè nấu ngọt để được lâu, nên những dĩa chè kho qua Tết mà ăn vẫn còn ngon dù nhà tôi không có tủ lạnh. Thấy tôi sẵn sàng để ra ngoài mẹ dặn theo:

 

– Đi đâu thì đi, về nhà cắt lá cắt rễ mấy kí củ kiệu kia cho mẹ.

 

Tôi ngao ngán nhìn mấy bó củ kiệu trong rổ to để ở góc bếp nhưng vẫn phải hứa:

 

– Bảo đảm con sẽ làm sạch mấy bó kiệu này.

 

Tôi và Bích Hợp chở nhau trên chiếc xe đạp đi chợ Bà Chiểu. Chợ Tết nhộn nhịp và đầy sắc màu Tết từ rau xanh đến trái cây, đồ tiêu dùng… Hai đứa vào chợ, say mê len lỏi trong những dãy sạp quần áo, trang sức, thơm mùi quần áo, nước hoa và hơi người, trước là để ngắm cho thỏa thích sau là chọn mua một vài món ưng ý.

 

Người đâu mà đông thế, cứ chen vai nhau mà đi, cứ xô đẩy nhau mà đi. Tiếng nói cười, tiếng trả giá mua bán tưng bừng huyên náo. Bích Hợp chỉ một chiếc váy ngắn màu tím treo ở trên cao trong một sạp quần áo và nói với tôi:

 

– Mình xem thử cái váy này nha?

 

Tôi cũng thích thú nhưng vẫn ngần ngừ:

 

– Ừ, ừ… màu tím đẹp đấy. Chỉ sợ… nó hở hang, đã ngắn lại còn sát nách nữa.

 

– Sợ gì? Đẹp thì mua.

 

Bà bán hàng dùng cây sào dài “khều” chiếc váy trên cao xuống. Hai đứa trầm trồ giơ váy lên vuốt ve và khen:

 

– Dễ thương quá.

 

– Mình vải bằng thun mềm mại co giãn êm ái ghê.

 

Bích Hợp ướm thử váy lên người và nói với bà bán hàng:

 

– Nhưng váy ngắn mới tới đầu gối. Bác ơi có váy nào dài hơn nữa không?

 

Bà bán hàng giải thích với hai con bé học trò mặt còn non choẹt:

 

– Đây là mini jupe. Thời trang mà.

 

Hai đứa tôi chụm đầu vào nhau thì thầm bàn tán rất lâu mới đi đến quyết định… mua chung một cái cho đỡ tốn tiền để mặc 3 ngày Tết, vì nếu mặc không vừa hay không thích nữa thì bỏ cũng không tiếc. Thời xưa cuộc sống thật giản dị, mua quần áo ở chợ chỉ nhắm chừng mà mua, không có chỗ thử quần áo và cũng không có luật lệ nào cho trả lại hàng đã mua như bây giờ.

 

Lần đầu tiên hai đứa bạo gan thử diện mini jupe xem nó ra làm sao. Tôi không dám mang chiếc váy về nhà sợ mẹ trông thấy, Bích Hợp mang về nhà nó. Hôm sau nó len lén mang sang nhà tôi, chiếc váy được gói kỹ trong tờ giấy báo. Hai đứa tôi trèo tót lên căn gác lửng để thử váy. Bích Hợp mặc váy trước, chiếc váy ôm theo thân người nó thật đẹp và gợi cảm. Nó reo lên khe khẽ sợ dưới nhà mẹ tôi nghe thấy:

 

– Trời ơi! Tớ thích lắm, đẹp ơi là đẹp!

 

Nó ưỡn ẹo qua lại và nhìn vào gương mà mơ:

 

– Mặc váy này tớ ước gì được chải tóc cao phồng như mái tóc cô ca sĩ Minh Hiếu nữa cơ. Sang trọng lịch sự lắm.

 

Tôi vội ngăn cản:

 

– Chải tóc cao phồng là phải đánh tóc rối, xịt keo, lúc gội đầu cực chết luôn đó Bích Hợp. Với lại kiểu tóc ấy không hợp với tuổi học sinh chúng mình.

 

Nó vẫn mơ tiếp:

 

– Hay tớ buông xõa mái tóc dài sầu mộng như cô Thanh Thúy?

 

Mặc kệ nó mơ những mái tóc ca sĩ. Đến lượt tôi mặc váy cũng đẹp, nhưng tôi co rúm người lại vì váy hở nách và hở đùi. Tôi lo lắng:

 

– Chết rồi, thế này mẹ tớ không cho mặc đâu.

 

Bích Hợp khích lệ tôi:

 

– Yên chí đi. Ngày Tết không ai mắng con cái vì sợ xui xẻo cả năm. Vậy hai đứa mình ai sẽ mặc váy trước đây?

 

– Bích Hợp mặc… thí nghiệm trước đi, khai trương cái váy ngày mồng một Tết, tớ sẽ mặc ngày mồng 2 Tết, mẹ Bích Hợp không mắng thì chắc mẹ tớ cũng không.

 

Bích Hợp thắc mắc:

 

– Thế còn ngày mồng 3 Tết ai mặc?

 

– Mồng 3 Tết hai đứa đều không mặc cho… huề. Mặc liên tiếp người ta sẽ phát giác ra hai đứa chỉ có một cái váy màu tím.

 

– Ừ nhỉ! Với lại mình còn mặc thứ khác nữa chứ.

 

Chợt Bích Hợp băn khoăn:

 

– Làm sao chúng mình cùng mặc váy đi sở thú chụp hình được nhỉ?

 

Tôi và Bích Hợp thân nhau lắm, Tết năm nào hai chúng tôi cũng rủ nhau đi Thảo cầm viên chơi và chụp hình, chụp bên vườn hoa xong thế nào cũng chụp bên chuồng voi, chuồng khỉ, gấu, beo, đủ cả. Tết năm nay cũng sẽ đi nhưng chỉ có một chiếc váy đẹp mà cả hai đứa đều thích. Biết làm sao? Thấy Bích Hợp thích mặc váy quá tôi nhường nó:

 

– Mồng 3 Tết chúng mình đi sở thú và Bích Hợp mặc váy. Còn tớ mặc thứ khác.

 

Bích Hợp sung sướng gói chiếc váy vào tờ báo mang về nhà đợi ngày Tết đến.

 

Tôi và Bích Hợp,  hai đứa chơi thân quấn quýt nhau như hình với bóng. Cùng viết chung cuốn lưu bút ngày xanh, đọc chung tờ tạp chí, cuốn truyện hay. Đi chơi thế nào cũng chụp hình chung làm kỷ niệm dù hằng ngày vẫn thấy mặt nhau tại lớp học hay khi về nhà. Căn gác lửng nơi mà các chị em tôi ngủ trên này thỉnh thoảng có thêm Bích Hợp qua chơi và ngủ lại dù nhà nó chỉ cách nhà tôi vài bước chân chạy vù một cái là về đến nhà thế mà nó vẫn thích chen chúc ngủ chung với chị em tôi. Hai đứa tôi nằm cạnh nhau thủ thỉ nói chuyện cho tới khuya bên mấy đứa em đang ngon giấc.

 

*

 

Mẹ tôi đã chưng bày bàn thờ Tết nào bánh chưng chè kho, nải chuối sứ xanh và hoa quả, dĩ nhiên không thể thiếu bình hoa Vạn Thọ sắc vàng rực rỡ. Trong lòng tôi cũng đang rực rỡ niềm vui khi nghĩ đến mồng 2 Tết sẽ được mặc chiếc váy đẹp. Chiếc váy mini thời trang lần đầu tiên trong đời tôi dám cả gan “hùn vốn” một nửa mua để mặc. Mồng 1 Tết trôi qua, tôi hình dung ra Bích Hợp xinh đẹp trong chiếc váy mini màu tím đi chúc Tết người thân nhà nó và được bao người khen ngợi. Rồi tôi hình dung đến lượt tôi, hồi hộp và hào hứng quá.

 

Theo đúng giao ước buổi tối mồng 1 Tết Bích Hợp sẽ mang chiếc váy sang cho tôi và nó đúng hẹn. Hai đứa lại mang gói giấy báo bọc chiếc váy chạy tót lên căn gác lửng. Nhưng lên tới gác thì Bích Hợp buồn buồn thông báo:

 

– Chiếc váy… bị… tớ ủi cháy rồi! Tớ cũng chưa được mặc.

 

Tôi tắt ngúm niềm vui, bàng hoàng ngẩn ngơ và khóc ngay tại chỗ. Thấy tôi khóc Bích Hợp sợ quá cũng khóc theo. Nó mở tờ báo và trải chiếc váy ra trước mặt tôi, chỉ vào vết cháy xém dài trên váy và sụt sùi:

 

– Đây nè, chiều 30 Tết tớ đem giặt và ủi lại cho đẹp để sáng mồng 1 mặc. Ai ngờ vải thun gặp bàn ủi nóng đã cháy và co rúm lại luôn.

 

Bích Hợp hối hận năn nỉ:

 

– Tớ không dám sang báo sợ bạn mất vui đêm 30 Tết và xui ngày mồng 1 Tết, đợi đến tối mới dám sang đây. Thôi, đừng khóc nữa, tớ xin lỗi.

 

Thấy Bích Hợp buồn, Bích Hợp năn nỉ, tôi dù tiếc rẻ cũng phải ngưng khóc:

 

– Ngày Tết ai mà giận là giận cả năm sao. Tuy chiếc váy bị hư xấu phải bỏ đi nhưng may mắn  là cả hai mình đều được mặc thử và ưng ý. Tết sang năm chúng mình “già” thêm một tuổi nữa, sẽ mạnh dạn mua mỗi đứa một chiếc  mini jupe hi vọng mẹ không la.

 

Bích Hợp quên buồn, nó lại dệt mộng:

 

– Nhưng khác màu kẻo người ta lại tưởng hai đứa mua chung một váy thì oan lắm. Tết sang năm  tớ  nhất định sẽ có kiểu tóc thích hợp với chiếc váy mới.

 

Tôi tò mò:

 

– Kiểu cô Minh Hiếu hay cô Thanh Thúy?

 

Tớ sẽ cắt tóc kiểu Phương Hoài Tâm dễ thương, hợp với lứa tuổi học trò chúng mình và hợp với chiếc váy mini xinh xinh. Đi sở thú ngày Tết chụp hình kỷ niệm thật tuyệt vời.

 

– Nguyễn Thị Thanh Dương.

(Jan. 30, 2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.