Hôm nay,  

Tháng Hai tàn đông

09/02/202315:38:00(Xem: 3164)
Tùy bút

IMG_4727


Với tôi, tháng Hai là tháng mùa đông tàn phai, chuẩn bị tâm hồn phơi phới cho những ngày sắp tới. Các bạn tôi giãy nảy lên, xúm vào bảo tôi “nói thách” sớm quá, vì tháng Hai vẫn là mùa đông, nhiệt độ vẫn ở độ âm dưới zero, tuyết vẫn rơi bao la, vậy tàn đông cái nỗi gì!

 

Thì để tôi giải thích cho mà nghe. Này nhé, mùa đông Canada chính thức có 4 tháng lạnh, đó là tháng Mười Một, tháng Mười Hai, tháng Một và tháng Hai. Nhưng tháng Mười Một là tháng lạnh “mở màn”, cái lạnh chớm đông, có gió, có tuyết, có mưa, nói chung là có đủ thứ lạnh lẽo, nhưng thật sự nhiệt độ chỉ “âm sơ sơ”, chưa “âm dã man”, nên chẳng nhằm nhò gì với real Canadians, vì “lâu rồi đời mình cũng quen”, coi như không tính.

 

Đến tháng Mười Hai, bắt đầu lạnh hơn, có những ngày lạnh tái tê, nhưng tháng này là mùa lễ Noel và đón Tết Tây, ai cũng bận rộn mua sắm, trang trí nhà cửa, gửi thiệp, gửi quà cho người thân, nên thời gian qua mau, hết tháng hồi nào không hay. Nói chung, tháng của lễ hội, của hồ hởi mua sắm và ăn uống vui vẻ, thì dù có bão tuyết cũng hổng biết lạnh là gì.

 

Cuối cùng chỉ còn lại Tháng Một và Tháng Hai, là cao điểm của mùa đông, có khi lạnh khủng khiếp, lạnh “thấy bà cố”, nhiệt độ có lúc âm hơn 20 độ C cho đến âm 30 độ C, thậm chí âm 40 độ C, lạnh hơn cả Bắc Cực, nhưng tháng Hai ngắn ngủi, có 28 ngày, Canada còn có ngày Family Day trong tháng Hai, chưa kể Tết Nguyên Đán cũng thường rơi vào tháng Hai, và đặc biệt nhất là có ngày Valentines, nên cái lạnh cũng chả thấm thía gì, vì trái tim đang hừng hực lửa tình. (Yêu mà lị, trời sập còn chả màng nữa là ... bão tuyết!)

 

Cho nên, túm lại, đối với tôi, mùa đông Canada chỉ thực sự là Tháng Một mà thôi, vậy sao không vui không cười mà đón Tháng Hai? “Mùa đông đến, em không mong đợi gì, mùa đông đi, em không hề hối tiếc”. Chúng tôi hay nhại câu hát này mỗi mùa tuyết tan.

 

Dĩ nhiên, tôi vẫn biết, tháng Hai còn lạnh, còn tuyết. Nhưng cái lạnh ghê gớm của tháng Một đã qua rồi, thì cái lạnh của tháng Hai là “chuyện nhỏ như con thỏ”. Còn tuyết hả, đó là “đặc sản” của Canada, cấm cãi! Theo thống kê, trong lịch sử của đất nước này, chỉ có một tháng duy nhất, cho đến nay, chưa có tuyết rơi, đó là tháng Tám (hên quá, là tháng có birthday của tôi!). Có nghĩa là trong quá khứ, ngoài bốn tháng chính thức mùa đông như tôi vừa nói ở trên, thì tuyết đã có rơi lất phất ở những tháng khác, trong đó có cả tháng hè như tháng Sáu, tháng Bảy. Bởi thế cho nên, câu hát của cố nhạc sỹ bay bướm Trần Thiện Thanh “…không bao giờ, không bao giờ giữa mùa hè tuyết rơi…” là sai bét nhé! Mà suy cho cùng, mấy khi tuyết trái mùa kéo dài được lâu, vì gặp nhiệt độ cao thì tuyết sẽ tan đi mau chóng, trả lại đường phố sạch sẽ như sau cơn mưa rào. Mà thôi, Canada mà không có tuyết thì còn gì là Canada, có phải?

 

Trở lại chuyện tháng Hai, tôi gọi đó là Tháng Tình Yêu, vì có ngày Valentines trong tháng. Tôi và một chị bạn văn chương (đang sống bên Pháp) hay nói đùa với nhau rằng, đây là tháng tụi mình tha hồ viết văn, viết thơ về Tình Yêu mà không sợ bất kỳ ai soi mói, bắt bẻ, hay “gieo tiếng ác” là viết chuyện của mình.

 

Sở dĩ chúng tôi nói như thế, vì chúng tôi đã từng là nạn nhân của mấy vụ hiểu lầm (hay cố tình hiểu lầm) của mấy độc giả ngây thơ (hoặc giả bộ thơ ngây). Ví dụ, có lần tôi xem xong bộ phim đầy cảm xúc về đề tài gia đình ly tan, tôi có viết bài thơ “Về Ngang Qua Nhà Cũ”, diễn tả một gia đình đã chia tay, người vợ tự hỏi thầm, nếu anh có dịp đi ngang qua căn nhà cũ, từng là tổ ấm một thời của đôi ta, có căn phòng ngủ còn kỷ niệm mặn nồng, có căn phòng ăn vẫn đợi chờ, có vườn hoa hồng vẫn nở... thì anh có một phút giây nào chạnh lòng, xao xuyến bâng khuâng? Bài thơ tôi post trên facebook, bên cạnh những comments chia sẻ về nội dung bài thơ, về cuộc đời, về nghĩa vợ tình chồng, bỗng có một người chen ngang thiệt… có duyên: “Chị thành thật chia buồn và thông cảm cho hoàn cảnh của em lắm, em gái ơi”.

 

Vụ gì vậy trời? Chia buồn cái gì, thông cảm cái chi, vợ chồng tôi chưa kéo nhau ra toà mà! Không lẽ, bài thơ nào, bài viết nào về Tinh Yêu tôi cũng phải la lên là không phải chuyện của tui? Còn chị bạn của tôi thì có lần viết về “người thứ ba” trong một cuộc tình. Ngờ đâu đụng chạm tới nỗi niềm của mấy bà vợ có chồng trăng hoa, thế là chị ấy phải hứng những lời mỉa mai cay độc, và cả những câu “lên lớp” dạy đời của những người đạo đức (thật và giả), ghê thật!  Người viết, chẳng lẽ nào, không được viết lên mọi khía cạnh của cuộc sống, của muôn mặt Tình Yêu?

 

“Chủ nghĩa lãng mạn, đó là chủ nghĩa tự do trong văn học”. Victor Hugo đã phán như vậy. Ước gì ai cũng hiểu rằng, những người mang nghiệp “cầm viết”, dù là chuyên nghiệp hay nghiệp dư (như tôi), đã lỡ mang trái tim đa sầu đa cảm, mưa cũng buồn, nắng cũng lao xao, lá thu rơi cũng nghe tim buốt nhói, đông về tuyết đổ cũng rung cảm lâng lâng? Thế là viết, thế là để trí tưởng tượng bay bổng, và để thêm phần “ướt át” thì phải có lãng mạn, có day dứt, tiếc nuối, nhớ nhung, thế thôi! Quyết định dzậy đi! Không phải bài truyện bài thơ nào cũng là tâm tình của người viết, nghen?!

 

Nhạc sỹ kỳ cựu Lam Phương đã từng nói: “Tôi làm khoảng 300 bài nhạc tình, đâu có nghĩa là có… ba trăm người yêu”. Trong cuốn sách mới nhất vừa được xuất bản “Lam Phương, Trăm Nhớ Ngàn Thương”, cũng nói về một số bài hát từ tâm tư thật, hoàn cảnh thật của tác giả. Nhưng cũng có rất nhiều bài, là cảm xúc bất chợt trước một khung cảnh hữu tình, không hề có hình ảnh của một bóng hồng nào, rồi tác giả cứ nhắm mắt đưa chân, thả hồn lang thang theo mây gió trời trăng, để ý nhạc tuôn trào, thành một bài hát buồn não nề, cho một cuộc tình tan vỡ, đó là bài Thành Phố Buồn (tưởng tượng mà hay tuyệt vời luôn á). 

 

Hoặc trong một bài báo nào đó tôi đã đọc, ông hoàng viết nhạc bolero nọ, vừa cho ra mắt một bài hát “sến như chưa từng sến”, nức nở tan nát thê lương cõi lòng, tưởng như chết đi sống lại, vì người con gái ấy đã sang sông theo chồng. Ngày hôm sau có một người bạn đến chơi nhà, thấy nhạc sỹ đang ngồi ăn nhậu vui vẻ với bạn bè, chớ có dấu hiệu ảo não “đời vắng em rồi vui với ai” đâu nà!? Hỏi về bài hát “khổ đau” mới ra lò, nhạc sỹ cười ha hả, “thì viết cho nó… mùi mẫn, để câu khán thính giả, chớ ngu gì buồn, ngu gì chết!”

 

Từ đó, để “an toàn trên xa lộ”, tôi cũng rút kinh nghiệm cho riêng mình. Hễ đó là chuyện thật của trái tim tôi, tôi sẽ dặm thêm gia vị đường muối bột ngọt thả dàn, để không ai đoán ra được nỗi lòng của mình. Chẳng dại gì mà thật thà khai báo “cho khắp người đời thóc mách xem” như thời trẻ nông nỗi. 

Còn nếu là chuỵện của thiên hạ xung quanh, tôi viết lại, cũng nhẹ tay cho chút mắm muối, đổi chút tên tuổi. Để sau này có lỡ bị ai đó nổi sùng, mắng vốn: “Sao cô dám đem chuyện nhà tui ra cho mọi người biết?”, thì còn có đường mà… chối, mà chạy tội.

 

Truyện và thơ của tôi sẽ tung đầy hoả mù. Ai tò mò, thích “tám ba điều bốn chuyện” cũng sẽ chẳng bao giờ biết được bài nào là rung động thật, cảm xúc thật, bài nào là viết cho vui, cho đời bớt sầu, bài nào nghe lỏm được từ nhà hàng xóm, bài nào hờn trách người xưa, bài nào nhớ nhung thuở ấy.

 

Còn bây giờ thì tôi không thể rời mắt khỏi khung cửa sổ sau nhà: nắng sớm vàng tươi chiếu rọi xuống những cành cây khô, phản chiếu lấp lánh những mảng tuyết bám trên cây. Dự báo thời tiết tuần này sẽ có mấy ngày nhiệt độ trên zero, nắng rực rỡ. Mai kia mốt nọ, tuyết cũng sẽ còn rơi, nhưng đông đang tàn, và tuyết sẽ tan, trôi đi hết những bụi bặm của mấy tháng qua, cho đất trời thay màu áo mới.

 

Cám ơn mùa đông, tôi được mộng mơ

Giữa tuyết trắng, thấy lòng mình tinh khiết

Có nghĩa gì những chuyện đời hơn, thiệt…

Cũng bọt bèo, như tuyết, sẽ tan đi!

 

Bốn câu thơ này là cảm xúc thiệt của tôi, không có “mắm muối” gì đâu á!

 

-- Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.