Hôm nay,  

Một trăm chỗ lệch

22/03/202319:46:00(Xem: 3510)
Truyện

hoangquan
Đôi bóng – Tranh Hoàng Thanh Tâm.



Thỉnh thoảng nổi hứng, ông bảo, để ông nấu nướng, bà dọn dẹp rửa chén. Ông nấu nhanh, mắm muối mạnh tay. Khi nghe ông thông báo trổ tài món thịt heo kho trứng, bà tưởng như lượng Cholesterol phóng vút lên trần nhà. Ông khuân về tảng thịt hai rọi, chứ không phải ba rọi. Rọi mỡ lấn lướt rọi nạc một cách sỗ sàng. Ông luộc trọn chục trứng gà. Ông theo nguyên tắc “cho gọn”, mua bao nhiêu, nấu bấy nhiêu. Cũng may, chợ gần nhà ông bà không bán vĩ trứng 24 cái. Nhìn nồi thịt kho, ông tấm tắc: “Ngon bá cháy.” Bà nhăn nhó, với đà dinh dưỡng như vầy, chẳng chóng thì chầy ông bà trở thành võ sĩ Sumo.

Đến phiên bà lo việc bếp núc, ông rối cả mắt. Vài rẻo thịt mỏng dính nằm khép nép trên thớt. Mấy rổ rau dàn hàng nghênh ngang, nào cần tây, cà rốt, bắp cải. Bà giảng giải, ăn uống phải đầy đủ sinh tố từ A đến Z. Nồi canh mồng tơi (Spinach) to tướng được bà ban cho vài con tép riu. Ông chẳng biết mấy con, vì bà đã băm nhuyễn rồi. Đã vậy, sợ lên đường, lên muối, bà nêm lạt lạt. Bà nhắc chừng ông, cao máu, cao mỡ, thì phải để ý thế này, thế nọ. Thằng em rể mắng vốn với ông: “Anh ơi, em gái anh coi chồng như thỏ, như bò. Vợ em cho em ăn toàn là rau với cỏ.” Ông thở dài sườn sượt: “Chú mầy vậy là còn hên! Anh đây, không chỉ ăn, mà còn phải uống rau cỏ nữa. Chú mầy thấy mắt anh lúc nào cũng trố trố không? Bả ép su hào, ớt chuông, dưa leo, rồi bả ép anh uống, mà phải uống trước mặt bả, chứ đâu lén đổ đi đâu được. Uống riết, trợn trắng.”

Bà dọn mì xào, ông trút cả tô nước mắm vào dĩa mì, hỏi giỡn:

– Bữa nay em quên nêm hay sao mà lạt nhách, lạt nhơ. Ăn hổng biết là món gì.

Bà nghiêm giọng:

– Lạt thì anh cứ việc thêm chút nước mắm. Chỉ sợ quá mặn mới hết thuốc chữa.

Bà nhớ ngay một chuyện cười thời đại dịch. Nhưng không dám nói trước bữa ăn, sợ cơm không lành, canh không ngọt. Bà định bụng, lúc nào thuận tiện, sẽ kể. Rằng, có ông chồng nọ than món ăn không có mùi vị. Bà vợ tức tốc gọi điện thoại cho bác sĩ. A lê hấp, bác sĩ đưa ông chồng vô cấp cứu, vì khứu giác không hoạt động là hiện tượng của nhiễm bệnh dịch. Ui, nghĩ vậy thôi. Chứ bà biết rõ mười mươi, nghe mấy chuyện như vầy, ông sẽ phán ngay: “Diễu dở!”

Mùa dịch, ông rầu rĩ, không lấy hẹn được ở tiệm hớt tóc. Thời may, có đứa bạn đàn em biết cầm kéo. Vài ba tuần, ông chạy đến cho thằng em tỉa tót tóc tai. Ông đi từ hai giờ chiều. Đâu chừng bốn giờ ông nhắn: “Em ơi, chiều khỏi lo cơm. Con Liên bữa nay nấu nướng linh đình lắm. Mình cũng được phần.” Bà ngại quá, định bụng dặn ông. Lần sau phải từ chối, chứ đã nhờ người ta cắt tóc, lại còn đóng gói đồ ăn đem về. Thôi thì đằng nào cũng lỡ rồi. Xem ra có lộc ăn. Bà cho ông táo nghỉ việc. Bà nhẩm tính. Ông chạy xe khoảng 20 phút là đến nhà. Chắc 5 giờ hoặc trễ lắm 5 giờ rưỡi ông có mặt ở nhà. Đúng bữa ông bà ăn cơm chiều lúc 6 giờ. Quá tiện. Khỏi nấu ăn, bà loanh quanh trong vườn ngắm hoa, nghía lá. Trời xâm xẩm tối, bà nhìn đồng hồ, hơn 6 giờ mà vẫn chưa thấy ông. Bà bắt đầu nóng ruột. Chắc ông bị kẹt xe. Ồ, đoạn đường gần xịt, ở làng vắng vẻ, tha hồ mà chạy. Hay ông bị hư xe. Nếu bà gọi, chỉ làm ông rối lên, bà chẳng giúp được gì. Bà lóng ngóng ngó xuống đường. Mãi gần 7 giờ, ông mới về đến nhà. Bà mừng rỡ, thấy ông tươi tắn, khỏe khoắn chứ chẳng có vẻ gì mệt nhọc. Đưa cho bà bịch ny lông nóng hổi, ông nói:

– Em ăn liền đi cho nóng. Cháo vịt, ngon lắm.

– Anh chưa ăn, sao biết ngon?

– Ờ, hồi đầu anh định về sớm, ăn chung với em. Mà tại bữa nay thằng Linh ăn chay, mâm riêng. Con Liên than, ăn một mình buồn quá, rủ anh ăn. Anh thấy tội con Liên, nên ngồi ăn với nó cho vui. Đã quá giờ, bụng bà đói cồn cào. Tô cháo vịt, chén nước mắm gừng bên dĩa gỏi bắp cải. Liên chu đáo gói cho miếng chanh và mấy lát ớt. Đúng là đại yến. Bà tính, trong lúc bà thưởng thức món ngon, rủ ông ngồi nói chuyện, thì cũng như ăn chung chứ có gì đâu. Ông lục đục trong tủ áo, nói vọng ra:

– Anh phải đi gội đầu ngay. Mấy sợi tóc chọt chọt, ngứa cổ quá.

Thôi, đành “độc thực” vậy. Bà nghĩ thầm, ông thiệt tốt bụng. Luôn đem niềm vui cho người khác. Nói theo ngôn ngữ thời thượng, đi đâu ông cũng dễ dàng đốn tim người chung quanh. Có điều, “sách lược” đắc nhân tâm của ông chỉ áp dụng cho người ngoài. Còn bà là “người trong”, lại ít khi được hưởng quy chế này.

Cô bạn khoe mới học trên mạng cách làm bánh đúc, mời hai ông bà đến ăn chiều. Cô bạn không hài lòng với kết quả. Bà chưa làm bánh đúc bao giờ, nhưng biết ăn, biết nhận xét. Bà xếp điểm món bánh đúc của cô bạn vào thứ hạng “mẹ thành công”: bột quá đặc, nhân quá mặn. Nhưng ông xuýt xoa khen ngon. Bà ngạc nhiên. Hồi giờ, ông vốn không ưa các món bánh bột. Bà càng ngạc nhiên hơn. Khi ra về, ông hỏi, cô bạn còn bánh không. Thế là cô bạn gói một bịch bự tặng ông bà. Bữa sau, bà nói, bánh đúc không ngon, bà không ăn. Bà ngó ông:

– Em đâu biết anh thích bánh đúc.

Ông cười cười:

– Khen cho người ta vui. Lời nói chẳng mất tiền mua.

Bà tửng tửng:

– Ủa, sao hôm trước, anh Nam khen bánh cuốn em làm ngon, anh nói, dân Bắc kỳ khách sáo, đãi bôi.

– Thì đúng chứ sao. Em mới dọn ra bàn, ổng chưa ăn, mà sao biết ngon, rồi khen xối xả.



Bà kê liền cái tủ đứng:

– Vậy, nếu anh Nam ăn, thấy dở, mà vẫn khen cho em vui, thì lại là thật lòng.

Bà đáo để gớm. Ông đuối lý. Nhưng sức mấy ông cho bà biết. Ông đành hì hụi đi hâm dĩa bánh đúc to kềnh. Bà nói, có việc phải ra bưu điện. May quá, ở nhà một mình, ông sẽ tìm cách giải quyết của nợ một cách êm thắm. Chứ tuồn cả núi bánh ấy vào bụng có mà phát ách. 

Mấy đứa cháu đến chơi. Ông vui vẻ chuyện trò với lũ trẻ. Lúc đầu, bác bác, con con. Một hồi vui quá, ông đổi “tông”:

– Bác phải o bế tụi bây. Thằng Tí, ít bữa bác mầy già, mầy nhớ chạy vô viện dưỡng lão thăm bác nghe.

Bà đánh trống lảng, dụ tụi nhỏ ra vườn cho cá ăn. Khi mấy cháu về, bà nhẹ nhàng nói với ông:

– Mấy cháu còn nhỏ, anh đừng xưng hô mầy tao, nghe không hay.

Ông bực bội:

– Em khỏi lên giọng dạy đời. Anh đủ hiểu. Anh thương cháu, thân mật với cháu, mầy tao với tụi nó. Quan trọng là tình cảm, chứ nói năng lịch sự, mà ghét nhau, thì cũng như không.

Bà biết, bây giờ mà bàn thêm, ít bữa ông sẽ “mầy tao toàn tập” với cả đám cháu.  
 

Nhà ông bà có hai hộp thư: một hộp vuông vức có khóa, một hộp to kiểu Mỹ chỉ có nắp mở ngang, tiện chỗ cho sách báo. Những người đi phát báo quảng cáo tưởng là hai hộp thư cho hai chủ. Vì vậy, họ bỏ vào mỗi hộp một bộ báo quảng cáo sặc sỡ, dày cộm. Bà nói:

– Em sẽ dán chữ “Keine Werbung, “Xin đừng bỏ báo quảng cáo” vào hộp thư nhỏ để họ biết mà đừng bỏ thêm vào, dư thừa.

Ông nhướng mày:

– Chuyện ruồi bu. Đằng nào họ cũng in rồi. Không bỏ vào hộp thư, thì cũng vô thùng rác. Chỉ thêm một xấp báo chứ bao nhiêu.

– Biết vậy, nhưng rác nhỏ vẫn là rác. Với lại, nếu nhiều người không muốn nhận báo, dần dà, các cửa hiệu sẽ in ít báo hơn. Cũng là một bước tiến trong việc bảo vệ môi trường.

Ông nghĩ khác:

– Mình nhận thêm một xấp báo. Như vậy mình giúp cho người bỏ báo xong việc sớm một chút.

Bà hơi tức cười khi nghe “triết lý” của ông như vậy, bà mỉm mỉm:

– Mấy người lãnh tiền đi bỏ báo, phải làm cho đàng hoàng. Chứ đâu có bá đạo được.

Ông nhún vai:

– Anh vẫn muốn giúp cho người ta, anh nhận hai xấp báo quảng cáo trong hai thùng thư.

Ngưng một chút, ông đổi giọng:

– Em chẳng bao giờ nghĩ đến người khác.

Bà ngạc nhiên, quay nhìn ông lom lom, coi ông nói giỡn hay thiệt. Ủa, sao lạ vậy ta! Những lúc thấy bà lui cui đóng các thùng quà gởi về cho bà con ở Việt Nam, ông chẳng từng dịu ngọt với bà: “Anh quý em nhứt ở cái tính thương người, giúp người.”

Bỗng dưng bà nghĩ, cây không muốn lặng, việc chi mà buộc gió phải ngừng. Bà đều đều giọng:

– Tất nhiên, em có nghĩ đến người khác. Em nghĩ đến nhân viên Sở Vệ Sinh phải khuân nặng một cách vô ích những xấp báo làm ơn của anh. 

Ông chọc quê:

– Em mà học luật, thiên hạ chết không kịp ngáp. Sao em nói cũng được. 

Bà bực lắm, nhưng thôi không nói nữa. Kẻo ông lại bảo bà lúc nào cũng đòi phần thắng. Thế là thiện chí đóng góp bảo vệ môi trường của bà và xấp báo vô tích sự của ông đã làm không khí trong nhà ông bà bị “ô nhiễm” cả ngày.

Đó, mấy con sóng nhấp nhô vậy thôi, mà làm con thuyền tình ái của ông bà chòng chành miết. Lắm khi cả hai cũng lắc lư con tàu đi, thiếu điều văng ra khỏi thuyền.

Chiều cuối tuần, nhóm bạn cao niên tụ tập ăn uống, tán gẫu. Hồi trước, bạn bè tìm đến nhau trao đổi thông tin, kinh nghiệm nuôi dạy con cái. Giờ đây, tụi nhỏ lớn bộn, có cuộc sống riêng, bay nhảy khắp nơi. Nhà nào cũng chỉ còn lại hai… con khỉ già. Những dịp gặp nhau, hễ nhắc “chuyện chúng mình”, các ông, các bà bàn cãi sôi nổi như pháo tết. Họ thi nhau liệt kê những điều khập khiễng trong túp lều tranh của hai trái tim... gàn. “Bà xã tui hỏng lái xe, mà lái tài xế. Ngồi trong xe, cứ năm phút bả la oai oái: thắng, thắng lại anh. Nghe lời bả, chắc đi bộ còn nhanh hơn”.  Người khác tiếp lời: “ Bà nhà tui rình tui còn hơn mật vụ. Tui vừa từ phòng tắm ra, bả nói, tui quên rửa tay. Tui hỏi sao bà biết. Bả nói, vừa nghe tiếng giựt nước cầu tiêu xong là thấy tui mở cửa ra liền...”  Mấy bà vợ chưa kịp phản công, chị chủ nhà lên tiếng:

– Mấy ông, mấy bà ơi, bàn bạc nhiêu đó đủ rồi. Bắt chước người xưa như vầy nè: Yêu nhau vạn sự chẳng nề,/ Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Bây giờ, mỗi người một... miệng, phụ vợ chồng tui ăn sạch sẽ nồi bún bò nhen.

Muỗng đũa khua lách cách, rộn ràng. Mọi người vui vẻ xì xụp. Có tiếng hít hà khen ngon, khen cay. Ông buột miệng:

– Giò heo thấm thía, ngon quá!

Bà nhìn ông. Rõ là ông thưởng thức tận tình và khen thiệt lòng. Bà dịu dàng:

– Ăn vừa miệng anh ha!

Bà quay qua chủ nhà:

– Chị Hai ơi, cho tụi em làm xấu, xin thêm khoanh giò heo nữa nhe chị.

Chủ nhà mau mắn:

– Tụi em cứ tự nhiên.

Ông đón tô bún có thêm miếng giò khoanh hấp dẫn, nói nhỏ vào tai bà:

– Tuần sau mình nghỉ ăn thịt vài bữa nghe em.

Bà thủ thỉ:

– Rau mà mình nêm nấu đậm đà thì cũng ngon đó anh.

Ô, vậy là, tuần sau, hai ông bà sẽ bớt được một chỗ lệch. Bà chưa hề đếm thử vợ chồng bà có bao nhiêu chỗ lệch. Ui, trăm hay biết đâu cả ngàn chứ chẳng chơi. Nhưng chả ngại! Miễn là hai ông bà phải cố gắng đáp ứng điều kiện ắt có và đủ: Yêu nhau.

– Hoàng Quân

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.