Hôm nay,  

Chủ tiệm nước

08/04/202320:07:00(Xem: 4074)
Truyện

Hoi_An

Cái tin cu Thẹo làm chủ tiệm nước bay về làng, người làng vui như mở hội. Thằng Tèo chạy rảo khắp nơi rao:
     – Làng mình cũng vẻ vang lắm à nha, cu Thẹo làm chủ tiệm nước rồi bà con ơi!
Cả làng ai cũng rần rật theo, công việc ngưng lại hết, cứ tụm năm tụm ba bàn tán chuyện cu Thẹo. Họ hàng nhà cu Thẹo thì khỏi phải nói nữa, sướng rêm cả người, từ giờ trở đi đi vào lịch sử. Nhóm bạn cùng học năm xưa cũng đu theo náo nhiệt cả lên, thật ra thì mọi người đã nghe lời đồn đại từ mấy tuần trước nhưng nay thì tin chính thức từ báo chí dòng chính thống. Thằng Quân (mọi người vẫn thường kêu là  thằngCu) bắn tin lên mạng xã hội:
     – Tụi bay ơi, cu Thẹo làm chủ tiệm nước rồi nha, hổng biết nó còn nhớ hồi ở ký túc xá Thủ Đức không nữa?    
     Nhóm bạn học ngày xưa nhảy vào ứng đáp rốt rẻng liền. Thằng Nhân lập tức trả lời:
     – Hồi ấy mình ở kế phòng cu Thẹo, mỗi chiều đá banh xong đi tắm, cả phòng giành nhau một cục xà bông Zet, tụi bay còn nhớ không? Có lần đang tắm, nước gần cạn, xà bông đầy mình, hổng biết c1o cái gì đó ở đám cây tràm cứ kẽo kẹt rờn rợn làm sợ ma muốn chết luôn. Tao với cu Thẹo quáng quàng chạy về ký túc xá.
     Thằng Cương, giờ đã là lãnh đạo cao cấp của đài truyền hình HTV góp lời:
     – Mấy hồ nước tập thể của ký túc xá đầy rong xanh lè, nước nhờ nhợ vàng phù sa, thằng nào cũng tranh nhau múc mà xối kẻo không thì hết ráng chịu. Tụi bay có nhớ ký túc xá của tụi mình nằm bên bờ hồ không? Dân họ nuôi cá tra, cá vồ quá trời luôn, cứ mỗi sáng ra ngồi cầu tõm bỏ bom, đàn cá tranh mồi làm sôi ào ào cả mặt nước. Hồi đó nhóm tụi mình chuyên bắt trộm cá tra, cá vồ đem về nấu cháo ăn. Chỉ cần một thằng ngồi bỏ bom còn thằng khác xìa cái vợt tự chế ra là xúc cả một vợt nặng quịt cần luôn. Hổng biết hồi ấy cu Thẹo có ăn cá tra, cá vồ không ta?
     Mấy em sinh viên nữ ở tầng trệt kết nghĩa với mấy anh ở tầng tư, tối nào cũng tổ chức chặt hẻo, hát hò, ăn cháo cá vồ bắt ngoài hồ suốt cả năm thứ nhất.
     Cu Thẹo học lớp triết học, nhóm văn khoa chỉ học chung với cu Thẹo những môn chung như: Triết Mác–Lê, Chủ nghĩa duy vật biện chứng, lịch sử, Logic học… Thường thì những môn này vào lớp thì bảy thằng ngủ, ba thằng ngáp. Giáo sư tự giảng, tự nói thao thao bất tuyệt cũng chẳng cần ai nghe, cứ nói như tự sướng vậy mà. Cuối năm thi thì mỗi đứa tự tìm cách mà vượt qua (nhiều cách lắm nhưng dễ nhất là đến thăm thầy hay xin hẹn thầy ra quán) hổng qua những môn thổ tả ấy thì đừng hòng ra trường. Nay cu Thẹo làm chủ tiệm nước, mấy khứa học chung tiếc hùi hụi vì trình độ, trí tuệ, năng lực của nahu đều rõ như ban ngày, có lẽ mả tổ phát chăng. Thằng Thiệp ghẹo con Trang:
     – Hồi nẳm bà thân với cu Thẹo nhất, phải chi bà yêu nó thì giờ cũng nở mày nở mặt rồi.
Con Trang cười ngặt nghẽo:
     – Thôi đi ông, giày dép còn có số, đừng có nằm mơ giữa ban ngày.
     Thiệt tình mà  nói thì khóa ấy bạn bè đều làm ông nọ bà kia cả. Thằng Bằng làm xếp an ninh Bình Tân, con Đông làm quản lý báo chí, thằng Khánh làm thành đoàn… và tất cả đều giàu có dù ngày xưa chẳng có nổi cái xe đạp để đạp. Duy có cu Thẹo là nhất bộ đăng thiên, đứng đầu thiên hạ chứ đừng nói chi nhóm bạn học này.
     Lên năm thứ hai, sinh viên được về ký túc xá Trần Hưng Đạo. Đây là một tòa nhà cao mười một tầng nhưng đã cũ kỹ và bệ rạc lắm rồi, nước không thể bơm lên những tầng trên sinh viên phải xuống tầng trệt lấy nước lên mà dội cầu tiêu hay vệ sinh buổi sáng. Nhiều khứa chỉ cần một ca nước cỡ một lít là đủ vệ sinh xong mà còn chải cái đầu láng o luôn. Muốn tắm thì xuống tầng trệt, nơi đó có một hành lang kẹt giữa ký túc xá và tòa nhà kế bên làm chỗ tắm tập thể, có mười mấy vòi nước cho sinh viên nam tắm. Chỗ này dơ kinh khủng, rác rưới ngập tới mắc cá chân, nước thải lênh láng không bao giờ rút, chuột cống chạy rần rật cả bầy. Tuy tệ như vậy nhưng còn đỡ hơn sinh viên nữ, dù sao nam thì cứ ở trần xà lỏn mà tắm, còn nữ thì phải vô nhà vệ sinh để tắm. Cuộc sống sinh viên ký túc xá chung đụng chật chội, đời sống sinh viên thiếu thốn đủ điều. Có khứa về quê lên mang theo mắm lên mà dấu trong rương ăn một mình, cả phòng chờ khứa ấy đi tắm cả nhóm nhào vô xốc cái rương lộn tùng phèo. Khứa ấy giận nhưng chịu chứ biết làm sao được! Năm ấy không biết vụ gì, tụi thằng Đức, thằng Lân, thằng Phước… đánh lộn ì xèo. Cu Thẹo vốn hiền, không va chạm gì nhưng ở chung phòng nên cũng bị đập lây. Nay cu  Thẹo làm chủ tiệm nước. Thằng Phước nhắc lại:
     – Ngày xưa đứa nào đập chủ tiệm nước, mau mau thành thật khai báo để hưởng lượng khoan hồng!
     Những khứa bạn cũ gặp nhau trên mạng xã hội cười muốn chết luôn.
     Cũng ở ký túc xá này, đời sinh viên nghèo vật chất, thiếu thốn tinh thần, chẳng có gì để vui chơi giải trí. Tối tối cả nhóm kéo ra công viên 23/9 gần đấy để nhìn trộm gái bán hoa và khách làng chơi. Thằng Đức hồi ấy thường đầu têu chuyện này. Nay nó nhắc lại:
     – Hổng biết hồi đó cu Thẹo có đi rình gái bán hoa không ta? Nếu có, hy vọng nó ra cái luật gì đó thông cảm và có lợi chút ít cho những cô gái ăn sương. Chuyện kỷ niệm với chủ tiệm nước còn dài và còn nhiều lắm. Thằng Thảo bất chợt chuyển đề tài:
     – Cu Thẹo làm chủ tiệm nước chắc quán nước cũng vũ như cẩn thôi!
     Nhiều người không phải bạn học cũ, chỉ là bạn trên mạng xã hội nhào vô bình luận quá trời luôn. Một nick name là Thanh Thanh viết:
     – Chắc chắn vậy rồi, nhìn mặt là biết, nghe nói là hiểu!
     Một nick tên Quỡn bình:
     – Ngồi ghế chủ tiệm nước mà ăn xôi gà, quán xá chắc hổng khá nổi!
Riêng một nick khá lạ và tếu, tên là Cà Khịa viết hẳn một câu chuyện cực ngắn:
     – Cu thẹo làm chủ tiệm nước, quán xá cờ treo trống giục tưng bừng. Láng giềng gởi điện chúc mừng, bạn học cũ cũng mừng rần rật, sướng mê tơi luôn. Chợt có vị khách lạ vào quán nhìn quanh quất rồi hỏi:” quán nước có bán nước không?”. Cu Thẹo quạu:” quán nước hổng bán nước thì bán gì? Hổng lẽ bán đất?”. Vị khách lạ cười tủm tỉm, mắt nhìn trên tường, miệng nói bâng quơ:” Tại tui thấy trên tường treo toàn lựu đạn, dao găm, lưỡi lê, lưỡi mác... không hà!”. Cu Thẹo đanh mặt lại:” vũ khí định hướng đấy, chớ có đụng vô mà mang họa!”. Vị khách chuyển qua cười ruồi, vẻ mặt lém lỉnh đầy ý nhị nhắn với cu Thẹo:” làm chủ tiệm nước thì cứ bán nước nhưng chớ có bán nước à nha”. Dường như cu Thẹo cũng hiểu ý của vị khách lạ nên trả lời:” làm chủ tiệm nước cũng là cái nghề mưu sinh, tui biết nước nào cần bán nước nào không được bán, ông chớ có lo xa”.
     Nhóm bạn học cũ và những kháh lai vãng trên mạng thích thú với câu truyện dí dỏm và ý nhị ấy nên bấm ‘like’, bấm dấu hiệu icon mặt cười tới tấp. Thằng Đạt lớp sử, ở kế phòng cu Thẹo ngày xưa, giờ là giám đốc bảo tàng PN, dường như uống thuốc liều hay mật gấu nên bạo miệng:
     – Chủ tiệm nước cũng ngồi chơi xơi nước, ký tá bậy bạ những giấy tờ hay văn kiện mà người ta bảo ký hoặc tiếp khách, quàng khăn, gắn mề đay… vậy thôi. Cu Thẹo hiền, vô hại nhưng vẫn cứ theo cái lề thói cũ, cái định hướng cũ mà đi. Cu Thẹo làm chủ tiệm nước hay khứa nào làm cũng vậy thôi! Quán nước không khá nổi!
     Cái status của thằng Đạt có lẽ là một lời bình nhận được khá nhiều icon quam tâm nhất, rất nhiều người đồng ý nhưng không tiện bày tỏ ý kiến riêng, có lẽ họ cũng sợ bọn dư luận viên và những kẻ rình mò trên mạng.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 0323)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.