Hôm nay,  

Thoáng hương mùa cũ

19/04/202317:24:00(Xem: 2724)
Truyện

Trang vở cũ_HTT
Trang Vở Cũ – Tranh Hoàng Thanh Tâm.
Mùa lễ Phục Sinh, đám con nít gặp nhau ở nhà ông bà Ngoại, vui mừng tở mở. Đêm nào chúng cũng thức khuya lắc, khuya lơ. Sáng dậy trưa trật, trưa trờ. Mở mắt, mở miệng, như bầy tằm ăn rỗi. Chúng lau chau một hồi là tủ lạnh láng o. Chúng sục sạo tủ này, tủ kia, hỏi, chúng trả lời: “Kiếm cái chi tào lao ăn cho đỡ buồn miệng”. Nhà bếp bày biện nấu nướng linh đình, hết bánh cuốn, bánh canh đến cơm chiên, mì xào. Khi nhà bếp tuyên bố, hôm nay mời món bún ốc, đám trẻ uể oải: “Thôi, con nhịn đói”, “Con ăn chips cho no cũng được”. Bỗng đâu, giọng oanh vàng thỏ thẻ:
     – Lâu lắm rồi mình chưa đi ăn nhà hàng.
     Thế là có ngay dàn hợp xướng:
     – Đúng rồi! Bữa nay người lớn đãi con nít ăn nhà hàng Mỹ.
     Nhà hàng sang trọng đây là tiệm ăn của cháu chắt mấy đời ông Mạc Đĩnh Chi: ông Mỹ Mạc-Đô-Nô. Trong nhà, ai nấy bận rộn. Chỉ có Quỳnh Tương bị “ế độ” thôi. Bởi vậy, mọi người nhanh chóng có ngay quyết định. Người lớn Quỳnh Tương sẽ dẫn bầy cháu ra McDonald's để chúng chạy ngoài trời cho giãn gân, giãn cốt. Rồi vào tiệm nạp năng lượng với những big mac, hamburger, những shake này, shake kia.
     Cho mấy đứa nhỏ tìm bàn ngồi, nàng dắt hai đứa lớn lại quầy để đặt đồ ăn. Chỉ việc biểu mấy đứa nhỏ điều chỉnh âm thanh vừa đủ nghe là đã khản cả tiếng. Năm người, mười ý, tụi nhỏ ưa lộn xộn đó thôi. Tiệm McDonald's đâu phải đại tửu quán có hàng chục món điểm sấm, cả trăm món xào, chiên. Nàng phải lên giọng đe dọa: “Tụi bây rắc rối quá là dì xù. Dì dắt cả đám về nhà, bắt mỗi đứa ăn một trái táo”. Bầy nhỏ nghe đến táo, mặt mày đổi qua xanh lè như màu táo Granny Smith. Hai đứa lớn, bộ tịch nghiêm chỉnh, nhanh chân nối đuôi vào hàng ở quầy, đặt thức ăn cho cả nhóm.
     Quỳnh Tương chẳng hiểu tại sao những tiệm McDonald's luôn đông khách. Khoai tây chiên xìu xìu, chẳng bù với khoai chiên giòn tan ở các sạp bán xúc xích nướng. Mấy loại bánh mì kẹp thịt hâm hẩm, chẳng có mùi vị gì đặc biệt. Dọc đường đói bụng, ăn bánh mì Döner của Thổ Nhĩ Kỳ, nồng nàn vị xốt tỏi, đậm đà hơn nhiều. Vào tiệm McDonald's, nàng chỉ thích mỗi món bánh táo. Mắt nàng lơ đễnh nhìn các hình quảng cáo, mặc cho hai đứa nhỏ lựa chọn. Lát nữa, nàng chỉ cần hoàn thành sứ mệnh danh dự là trả tiền và giữ trật tự, trong khi đám con nít vừa ăn, vừa chọc ghẹo nhau.
     – Hallo Ihr Kleine, bitte schön! Nào, các cháu bé thích món gì đây!
     Cu Tí và Bê Bê cùng liến thoắng:
     – Vier happy meals, zwei mc rib, eine Apfeltaschebitte! Cho chúng cháu xin bốn phần này, hai phần kia, một phần bánh táo…
     Đột nhiên, Quỳnh Tương sững sờ, nhìn người đang đứng ở quầy vừa nhắc lại lời đặt hàng vừa bấm máy tính tiền. Trời ơi, Hiển, đúng là Hiển rồi. Lúc đó, Hiển cũng vừa nhận ra Quỳnh Tương. Hiển lúng túng, cố giữ giọng tự nhiên, hỏi hai đứa nhỏ:
     – Noch einen Wunsch? Còn đặt món gì nữa không các cháu?
     Hai đứa nhanh nhẩu:
     – Nein, das war´s. Danke schön. Dạ thôi, đủ rồi. Cám ơn.
     Hiển lách cách bấm máy, cười gượng gạo:
     – Lâu ghê, mới gặp lại Quỳnh Tương. Quỳnh Tương ở gần đây hả?
     Quỳnh Tương không giấu nổi bối rối:
     – Ờ, ờ, gần đây. À, à, chào Hiển, Hiển khỏe không?
     – Cám ơn Quỳnh Tương. Hiển cũng thường. Ồ, quên, phải tính tiền nữa chứ.
     Hiển đổi qua tiếng Đức:
     – Dreiunddreißig… Ba mươi ba đồng.
     Bê Bê láu táu:
     – Dì Út quen với chú này hả?
     Cu Tí lên giọng ta đây:
     – Không phải là chú đâu, là bác, vì bác này già hơn dì Út mà.
     Bất giác, nàng nhận ra Hiển già đi nhiều. Mới có gần mười năm, mà Hiển chẳng còn chút dáng dấp thư sinh. Trả tiền xong, nàng lí nhí đôi lời, nửa Việt, nửa Đức:
     – Cám ơn Hiển. Vielen Dank. Tschüß.
     Mặc cho bầy nhóc lao nhao tranh giành ăn uống. Trí Quỳnh Tương đang lùi những bước thật dài, thật nhanh về quá khứ, thời trung học ở một làng bé tí, miền trung nước Đức. Trong trường dành cho những học sinh ngoại quốc lỡ thì, quá lứa, đa số là “hàn nho” Việt Nam, nhiều người đang tà tà bước vào tuổi “băm”. Lèo tèo vài ba học sinh từ Tansania, Kenia, Kurdistan, Pakistan. Mỗi tầng lầu của ký túc xá cho khoảng 20 học trò chỉ có một nhà bếp lớn. Bởi thế, vào giờ cao điểm, những giao tranh nho nhỏ của dao thớt nồi niêu chẳng thể nào tránh khỏi. Chuyện gia vị, chén bát đi lạc cũng là chuyện hàng ngày. Đăng, một đầu bếp trứ danh của nhóm nam, lục lọi tủ đồ ăn, la oang oang:
     – Hiển, Hiển. Tương đâu?
     Nhân đang đứng gần đó, quay sang nhìn Quỳnh Tương, đủng đỉnh:
     – Tương đây nè. Làm gì mà phải hỏi thằng Hiển.
     Quỳnh Tương bực ghê. Đang chiên chả giò, nàng không dám dằn mạnh đũa chiên, vì sợ lỡ dầu văng trúng, phỏng thì oan mạng. Tên Quỳnh Tương văn hoa như vậy, mà mấy ông “cốt đột” này lại đem ra so với nước tương maggi hiệu cô đầu bếp cười toe. Đăng không để ý câu đùa của Nhân, chỉ lầm bầm:
     – Ông nội Hiển nấu ăn dở như hạch mà cũng bày đặt trổ tài. Nấu xong rồi dọn dẹp lộn xộn, xáo trộn hết trật tự của người ta.
     Khi Hiển chạy ra bếp, Đăng nhăn nhó:
     – Ông làm ơn lấy đồ đạc ở đâu, thì để lại đó. Mà thôi, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh, ông ơi. Ông cứ lo rửa dọn. Còn chuyện bếp núc để tui với thằng Nam tính.
     Hiển hiền lành:
     – Hôm qua, mấy ông miệng than đói, mà mắt dính cứng ti– vi coi đá banh. Tui phải tìm nấu quấy quá kiếm chút bỏ bụng.
     Thật ra, chẳng phải Hiển bất tài nơi chốn này. Ngày mới lập nhóm, Hiển lừng lẫy với món gan xào thơm. Danh vọng lên cao đến độ Hiển mang luôn cái tên hấp dẫn mà kỳ cục: Hiển gan xào. Nhiều đứa bạn lười lĩnh, chỉ gọi Hiển bằng hai chữ Gan Xào. Ban đầu, Hiển rất rầu vì cái tên có vẻ dĩ vãng khơi niềm đau. Dần dà, Hiển cũng quen và cảm thấy cần thiết để phân biệt với Hiển quắn lầu 1. Ngày ấy, Hiển và mấy người bạn họp nhau nấu ăn chung. Luân phiên, mỗi người nấu một ngày. Ai nấy hể hả. Bao nhiêu là của ngon, vật lạ. Hiển tung ra món gan xào thơm. Trong nhóm mỗi người một lời, thi nhau khen. Khiến Hiển có cảm tưởng mình là đầu bếp thứ thiệt, tài năng đang lên như diều gặp gió. Thành xuýt xoa:
     – Ngon, ngon không thể tưởng. Không thua gì món rựa mận ở đường Thoại Ngọc Hầu.
     Thục hỏi vặn:
     – Lúc ở Việt Nam, chú mày nhậu thịt chó dữ lắm sao?
     Thành giả lả:
     – Nhà tui ở đường đó mà! Đi ngang thấy họ để bảng quảng cáo nào là nhứt mực nhì vàng, nào là sống ở đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không.
     Nam sốt ruột cắt ngang:
     – Biết rồi, biết rồi. Quan trọng là ông đã ăn thịt cầy chưa?
     Thành nhẩn nha:
     – Thong thả. Chuyện gì cũng phải có đầu đuôi ngọn ngành chứ. Hồi đó, bà già tui cấm ăn thịt chó. Bà đe dữ lắm, cấm tiệt. Nhưng tui đi học ngày nào cũng đi ngang qua hàng thịt cầy. Vừa thấy hình chú nai đồng quê, vừa ngửi mùi. Thì coi như đã ăn rồi. Ăn... hàm thụ.
     Nhưng không lâu sau, thấy Hiển cứ bổn cũ soạn lại, cả nhóm đồng lòng thăng chức Hiển thành “phi công lái dĩa bay” và xóa tên vĩnh viễn món gan xào thơm ra khỏi thực đơn của nhóm. Nhà bếp rộng rãi, nhưng vẫn đủ để cho mọi người cùng hiểu chuyện nhau. Quỳnh Tương cũng như Hiển, nghề chính là rửa chén bát. Hôm nay ngoại lệ, mấy chị đã gói xong chả giò, nàng chỉ mỗi việc chăm lo nồi dầu chiên. Thỉnh thoảng, nàng thử “khám phá tài năng” mình, bữa thì mặn điếng, lúc thì nhạt thếch. Có lần, nàng tính nấu bún mọc, hầm xương không để ý, nước sôi sùng sục, đục ngầu. Vậy là nàng quyết định đổi thành bún bò, mặc dù không có thịt bò gân, giò heo và sả. Nàng xào bột ớt Paprika với dầu, nước đo đỏ ở trên mặt, coi như êm. Đến lúc dọn ra, nàng đã no vì nếm lui, nếm tới quá nhiều. Mấy chị làm ra vẻ khảnh ăn, khèo khèo vài cọng bún, húp vài muỗng nước, rồi buông đũa, vì trí tưởng tượng không đủ phong phú để nhận ra món nàng nấu là món ăn Việt hẳn hoi. Quỳnh Tương hay gặp “đồng nghiệp” Hiển trong những lúc thi hành công tác. Không hẹn, mà Hiển và Quỳnh Tương thường trùng “ca” lao động. Chén bát của chị em nàng gọn gàng, khoắng một tí là xong. Nàng chỉ ngán đám nồi niêu to lớn, dềnh dàng. Thấy nàng loay hoay với mấy xoong chảo dầu mỡ, Hiển hào hiệp ra tay cứu nhân độ thế. Nàng chỉ lẩn quẩn đứng trò chuyện. Tự lúc nào, những giờ giấc tinh tú quay cuồng với mớ chén bát, nồi niêu là thời gian Hiển và Quỳnh Tương chuyện trò tâm đầu ý hợp. Những câu chuyện lan man có thể đối với người khác vớ vẩn, ấm ớ. Nhưng đối với cả hai là những trao đổi thật thú vị. Chuyện ông thầy Anh văn giận đám học trò không sành ăn. Ông thầy nghỉ hè, lên tận bắc Âu câu cá. Rồi đem thành quả đi hun khói. Với cả tấm lòng, ông đem biếu cho đám học trò để tụi nó ăn bánh mì. Nhưng đám học trò Việt Nam không hảo những khoanh cá hoi hoi màu cam đỏ, đặt lên miếng bánh mì đen thui. Thế là một cô trong nhóm nhanh nhẩu thắng nước màu, xịt nước mắm, rắc tiêu, thêm vài trái ớt và biến thành món cá kho. Chỉ thiếu cái tộ và ăn với canh chua là thành món đặc sản Việt Nam. Ông thầy thất vọng não nề, mặt chầm vầm một đống. Nếu ông thầy rành tiếng Việt, chắc ông sẽ buông thõng một câu: “Ôi bầu dục mà chấm mắm cáy”. Chuyện cô giáo Hóa học tình cờ ngang qua phòng ăn, khi học trò đang xì xụp món bún riêu. Học trò diễn tả rằng, món này giống như súp trứng, tha thiết mời cô dùng bữa. Cho đúng điệu, một bạn múc một muỗng mắm ruốc đậm tình quê hương vào tô của cô. Tội nghiệp cô, phải ngậm đắng nuốt cay mà xơi món hải vị đặc biệt này. Cứ vậy, hai đứa ngày ngày cùng vui trong công việc chẳng mấy ai ưa chuộng.
     Thường đầu tháng, mới lãnh học bổng, nhóm bạn của Hiển kéo nhau ra quán ăn gà nướng. Nhà bếp vẫn có những người khác ra vào, nấu nướng rửa chén, mà những ngày không có Hiển trong bếp, nàng thấy văng vắng, thiêu thiếu điều gì. Nàng rửa chén thật lẹ rồi rút về phòng. Nghỉ hè, mấy chị em Quỳnh Tương về nhà. Hiển cùng vài bạn khác, những người một thân, một mình ở Đức, rủ nhau đi chơi loanh quanh thám hiểm nước Đức. Quỳnh Tương còn nhớ cảm giác man mác buồn vào mỗi mùa nghỉ. Trở về trường, cả hai lại có những giờ phút chuyện trò vui vẻ bên bồn rửa chén. Gần ba năm ở mái trường trung học này, xuất hiện nhiều đôi bạn. Nhân, từ khi cặp với Nguyệt Nga trở thành Vân Tiên. Dũng, cao lêu khêu, tự động bị đổi tên là Chú Lùn sau khi thành người yêu của Bạch Tuyết. Trong những sinh hoạt chung của ký túc xá, Quỳnh Tương và Hiển luôn có mặt. Cứ hai tuần một lần, tối thứ Sáu, cô Finke viết thật to trên tấm bảng trước văn phòng: Heute Abend! Disco! Tối nay có nhảy nhót. Học trò Việt Nam đông nhất, giành lấy việc để nhạc “tua” cho đầy đủ điệu nhảy Pasodoble, Tango, Chachacha... Nào là Dừng bước giang hồ, Mộng ban đầu, Nắng chiều... Học trò các sắc dân khác đến chơi vài lần, nghe “rơ” nhạc Việt Nam là dội, nhường hẳn đêm Disco cho học trò Việt Nam. Thấy bạn bè khiêu vũ, Quỳnh Tương rất thích. Nhưng cả nàng và Hiển không biết nhảy. Các “kép” khác xem Quỳnh Tương là “của” Hiển. Cho nên, chẳng ai mời nàng nhảy các điệu tình tứ. Chỉ khi “ông bầu” để những bài vui nhộn như Sáu mươi năm cuộc đời, Hot Stuff, Let's Twist Again... Thục rủ hết mọi người ra sàn nhảy, Hiển và Quỳnh Tương mới theo các bạn lúc lắc. Cho đến ngày rời trường, những gặp gỡ “riêng hai đứa mình” của Quỳnh Tương và Hiển vẫn chỉ là những buổi chuyện vãn trong nhà bếp.
     Sau mấy năm mài đũng quần ở trường làng, ai nấy giờ đây đã thành cô tú, cậu tú. Mấy nhóm cùng tầng lầu rủ nhau làm buổi tiệc chia tay. Nhóm nào cũng trình làng những món ăn tâm đắc của mình. Gánh nặng bài vở đã nhẹ, mọi người thơ thới, chuyện trò vui như tết. Họp mặt phải có hát hò mới vui trọn vẹn. Bởi vậy, màn văn nghệ bỏ túi được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt. Ai cũng góp phần. Nhưng Quỳnh Tương nhớ nhất phần trình diễn của Hiển. Hiển đọc bài thơ Hoa học trò của thi sĩ Nhất Tuấn. Rưng rưng phượng đỏ trên đầu/Tìm em, anh biết tìm đâu bây giờ/ Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa/ Gửi vào đây một bài thơ cuối cùng. Quỳnh Tương lắng nghe, xao xuyến. Hiển nâng đàn hát, đến đoạn Bây giờ còn nhớ hay không? Nhiều người không hẹn, mà cùng ca theo Bây giờ còn nhớ hay không?* Nàng hơi cúi đầu, vờ đưa tay nhón miếng trái cây, giấu sự cảm động. Nàng hơi tiếc, đã không nhìn Hiển. Biết đâu, ánh mắt của nàng sẽ gặp ánh mắt của Hiển. Cuối buổi, Đăng làm ra vẻ trịnh trọng:
     – Mời Nam đại diện cho nhóm đọc bài thơ “Cuộc tình chén bát” để tặng cho...
     Đăng bỏ lửng câu nói. Mọi người ồ lên thích thú:
     – Cho ai vậy ta?
     Đăng làm ra vẻ bí mật:
     – Các bạn kiên nhẫn nhe. Chờ nghe xong bài thơ biết cũng không muộn.
     Nam cất giọng:
 
     Em lẩn quẩn trong gian nhà bếp
     Anh thẹn thùng chén bát run tay
     Lim dim mắt bên em trời buông nắng
     Chữ nghĩa thầy giờ bỗng thoáng bay đi
    
     Chén bát đầy hình bóng em lẩn quẩn
     Cả hồn này bối rối hỏi vu vơ
     Nở nụ cười em buông lời thỏ thẻ
    “Rửa chén rồi mình tính chuyện mai sau”
 
     Nghe em nói cả hồn anh chất ngất
     Đống chén đầy mờ mắt ngỡ trầu cau
     Người yêu nhau trao tim lời hứa hẹn
     Mình yêu nhau chén bát giữ làm tin.
    
Nam vừa dứt lời, mọi người vỗ tay rào rào:
     – Rõ rồi, biết rồi.
     Thành đưa cao hai tờ giấy chép bài thơ, vờ hỏi:
      – Ai là người nhận huy chương nhỉ?
     Mọi người đồng thanh:
      – Quỳnh Tương và Hiển!
     Quỳnh Tương ngượng chín cả người, chưa biết phản ứng thế nào. Nàng len lén nhìn hai chị cầu cứu. Tiếng Hiển chậm rãi:
      – Cám ơn các bạn đã tặng bài thơ cho mấy phi công lái dĩa bay. Hiển rất vui đã có thể đóng góp chén bát sạch để có được những bữa cơm ngon cho cả nhà. Hiển cũng cám ơn Quỳnh Tương về những buổi rửa chén bát thật thú vị.
     Chị Quỳnh Chi, chị của nàng góp lời:
     – Chi thay mặt bé Út của tụi này, cám ơn bài thơ của các thi sĩ vườn nhà. Cám ơn Hiển hay phụ giúp bé Út nha. Hôm nay, tụi này sẽ đảm trách chuyện rửa chén. Cho Hiển và Quỳnh Tương được nghỉ phép.
     Quỳnh Tương chẳng vui mừng vì được nghỉ phép. Chỉ thấy tiếc, mất một buổi mạn đàm của “hai đứa mình”. 
     Suốt thời gian trung học, Hiển và Quỳnh Tương là láng giềng, cùng ở chung tầng lầu trong ký túc xá. Nhưng hai đứa chẳng bao giờ chung bước đến trường. Mà cũng chẳng bao giờ cùng sớm hôm lo sách đèn. Hiển là “ngôi sao” toán lý, nức tiếng mấy lớp. Bởi vậy, mấy đứa bạn học vùng Trung Đông cứ xin tôn Hiển làm sư phụ. Thế mà, kết quả của bằng tú tài không như Hiển mong đợi, vì điểm thi vấn đáp quá thấp. Trường hợp của Hiển giống vài học sinh Việt khác: đọc và viết giỏi, nhưng nghe và nói lại gặp vấn đề. Có những giám khảo người Đức, họ ít dịp nghe người ngoại quốc, nhất là người Á châu nói tiếng Đức. Cho nên, nhấn giọng, phát âm không chính xác, giám khảo không hiểu, không chấm điểm được.
     Rời trường, bịn rịn chia tay, bạn bè trao đổi nhau địa chỉ, hẹn nhau mỗi năm hội ngộ một lần. Tính vậy thôi, đâu ai thực hiện được. Ai nấy còn bao nhiêu nỗi âu lo, trăn trở trước ngưỡng cửa đại học. Những năm cuối thập niên 80, chưa có điện thoại di động, chưa có internet. Những ai sống với gia đình, còn có điện thoại bàn. Những người tứ cố vô thân như Hiển, mượn tạm địa chỉ của người quen. Xin được chỗ học ở tỉnh nào, mới đến đấy tìm nơi ăn ngủ. Quỳnh Tương và hai người chị học cùng trường với Nhân ở Frankfurt, miền Trung nước Đức, nhưng khác ngành. Được thời gian ngắn, hai chị lập gia đình, theo chồng, đổi đi học ở tỉnh khác. Thỉnh thoảng, muốn gặp Nhân, nàng phải hẹn năm lần bảy lượt. Nhân kể, Hiển lận đận trong chuyện học hành. Do thiếu điểm, Hiển không được chọn đúng trường, đúng môn mình muốn học. Hiển lưu lạc về tận Konstanz, một tỉnh cực nam nước Đức, sát biên giới Thụy Sĩ. Nghe Nhân bảo, Hiển gởi lời thăm Quỳnh Tương, lòng nàng xôn xao nhớ những ngày tháng êm đềm nơi trường làng. Nàng nhờ Nhân chuyển lời hỏi thăm đến Hiển. Thời gian sau, mỗi người có những bận rộn riêng. Có lần Nhân gọi, nàng vắng nhà. Nhân nhắn tin. Nàng gọi lại Nhân. Không gặp Nhân. Nàng cũng gởi lời nhắn. Mà chẳng thấy Nhân gọi lại. Từ đấy, nàng mất luôn liên lạc với Nhân và cũng chẳng còn tin tức gì về Hiển. Nàng có bạn bè mới. Vào những dịp lễ cũng có tụ tập, ăn uống. Nhưng không còn không khí vô tư như thuở học trò. Lật cuốn Album có mấy tấm hình thuở trường làng, lòng Quỳnh Tương bâng khuâng nhớ trường xưa. Nhìn những tấm hình chụp chung với nhiều người, nàng đưa mắt dò tìm những khuôn mặt bạn bè. Trong hình, Hiển và Quỳnh Tương thường là người ở đàng đông, người ở đàng tây. Chắc tại vì, hồi đó, hai đứa có tịch, nên rục rịch, không dám đứng gần. 
     Bê Bê đã đến bên Quỳnh Tương tự lúc nào, khèo khèo vai áo nàng:
     – Dì Út, bây giờ mình phải về. Chút nữa con đi sinh nhật của bạn con.
     Cu Tí tường thuật:
     – Bê Bê nó ăn cái bánh táo của dì Út. Hồi nãy nó hỏi xin dì. Mà không nghe dì nói gì hết. Bánh này phải ăn nóng mới ngon. Bây giờ bánh vô bụng nó rồi.
     Nàng chần chờ, muốn lại xếp hàng, mua đại một món gì, rồi tiện dịp, đưa số điện thoại để Hiển liên lạc. Nàng nhìn về phía quầy, Hiển vẫn bận rộn với dãy khách hàng đang đứng chờ. Quỳnh Tương nhẹ nhàng bảo mấy đứa cháu:
     – Không sao. Bây giờ mình về nhà nhe.
     Nàng băn khoăn, không biết Hiển có kịp ngước lên, thấy nàng và đám cháu đang rời tiệm. Giữa tiếng lao xao cười nói của bầy trẻ, nàng bồi hồi đọc khẽ câu thơ: chút ngày xưa gặp tình cờ/ thoáng hương mùa cũ như vừa đâu đây**.

 

-- Hoàng Quân

 

* Hoa học trò, thơ Nhất Tuấn, nhạc Anh Bằng

** Thơ, Trần Thị Cổ Tích

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.