Hôm nay,  

Từ những góc nhìn

22/07/202308:19:00(Xem: 3465)
Tùy bút

hoangquan

Lặng Lẽ, tranh Hoàng Thanh Tâm.



Người Bán Hàng Ở Siêu Thị


Tôi dần dà để ý đến một cặp vợ chồng Á Châu. Không hiểu tại sao, tôi đoan chắc họ là vợ chồng, chứ không thể là tình nhân, hay hàng xóm. Họ đến mua hàng hầu như mỗi ngày ở siêu thị tôi đang làm việc. Tất nhiên, trong con mắt người Âu Châu, chúng tôi thường đoán sai, sai rất xa, tuổi của người Á Châu. Riêng đối với cặp vợ chồng này, tôi hoàn toàn mù tịt, không thể nói họ bao nhiêu tuổi. Bề ngoài, tôi nghĩ họ dưới 40. Nhưng kiểu coi hàng hóa trong chợ, tẳn mẳn, chậm chạp, làm tôi nghĩ đến những người trên 60.
    Họ đi chợ nhiều giờ khác nhau, có khi cả trong giờ hành chính. Như vậy, phải chăng họ không đi làm việc. Ông vào chợ trước, đến thẳng khu bán đồ ngọt, bánh kẹo, sô-cô-la, vơ vài món bỏ vào xe. Bà lúc thúc theo sau. Đến cầm món hàng lên, nho nhỏ nói gì với ông, như cố thuyết phục ông đừng mua. Dùng dằng, ông có vẻ không hài lòng, bỏ đi, bà thảy mấy bịch kẹo, bánh vào xe, lật đật đẩy xe theo ông. Ông đến khu hàng các loại nước uống, xách ngay một bịch sáu chai Cola. Bà hốt hoảng, chạy tới, đỡ lấy bịch nước. Nhưng nhất định không cho ông mua, khệ nệ để lại trên kệ hàng. Hai ông bà bàn bạc nhau. Cuối cùng, ông vẫn khuân bịch nước bỏ vào xe. Bà đẩy xe đến quầy trả tiền, ông lững thững ra ngoài chờ. Bà bê các món hàng đặt lên quày. Hàng hóa chủ yếu là các loại bánh kẹo, trái cây. Không thấy thịt cá và những mặt hàng gia dụng khác. Tôi nhanh tay tính tiền. Bỗng nhiên, bà lộ vẻ lúng túng, lí nhí xin lỗi tôi, cho bà để lại bịch nước Cola, không mua.
    Có lần, ở khu vực hàng rau quả, bà lấy một hộp loại nửa ký cà chua để trong xe. Ông đến, dường như không hài lòng hộp cà chua bà đã chọn. Ông đặt hộp cà chua lại kệ hàng, lúi húi lựa hộp khác. Bà đứng cạnh, nhìn ông, nét mặt buồn xo.
    Tôi không thể nào đoán hai vợ chồng thuộc thành phần nào trong xã hội. Chắc chắn họ không phải vừa nhập cư. Cách ăn mặc của họ giản dị, nhưng tươm tất. Khi trả tiền, bà xài thẻ thông thạo. Lúc bà xin lỗi không mua bịch Cola, tiếng Đức của bà rất chính xác. Tôi chịu thôi. Bao nhiêu câu hỏi không có câu trả lời.
 
Người Hàng Xóm

Cô cậu người Việt là láng giềng gần của tôi. Họ có một cậu con trai, xong trung học, xa nhà đã vài năm nay. Họ ở tầng một, tôi ở tầng trệt, cùng nhìn ra sân chơi trẻ con và bãi đậu xe đạp. Chỗ đậu xe hơi dưới hầm của tôi đối diện chỗ đậu xe của họ. Đôi khi trùng giờ đi làm, cùng đoạn đường ngắn ra xe với cậu, chúng tôi tán dóc đôi câu vô thưởng, vô phạt. Cả cô cậu đều tươi tắn, thân thiện. Xem ra, cậu có vẻ mau mắn hơn, lúc nào cũng chào hỏi vui vẻ, nhanh nhẹn. Cậu đi làm bằng chiếc xe BMW X5 to tướng. Thỉnh thoảng, tôi thấy cô cậu đi cùng nhau. Có điều, chỉ thấy cậu cầm tay lái, tôi chưa bắt gặp cô lái xe hơi.
    Những chiều trời đẹp, khi đứng đón nắng, ngắm trời, tôi thấy cô đạp xe lòng vòng một mình. Bẵng đi vài tuần, tôi không hề gặp cậu đi làm. Chiếc xe lúc nào cũng ở chỗ đậu, khi tôi đi ngang qua. Thật ra, tôi cũng không để ý chuyện này, cho đến khi tôi tình cờ nhìn ra sân chung, thấy cô cậu đi dạo loanh quanh trong xóm. Ồ, như vậy, không phải cô cậu nghỉ phép vắng nhà. Tôi hơi lấy làm lạ. Bởi, từ ngày tôi dọn về đây, đã mấy năm, tôi chỉ thấy cô đi dạo một mình vào mùa ấm, chứ chưa thấy cậu đi dạo bao giờ. Thấy hai người đi ngang qua, tôi vẫy vẫy tay, chào, hỏi khỏe không, cô hơi dừng chân, ngước lên chào đáp. Cậu nhìn tôi, dửng dưng như không quen.
    Mấy ngày sau, bỗng dưng, tôi ưa đứng hóng gió ngoài sân vào buổi chiều, sau khi đi làm về. Tôi ngạc nhiên hơn, thấy cả cô cậu cùng chạy xe đạp. Lạ nhỉ, không lẽ xăng nhớt lên giá quá độ, làm cho cô cậu chuyển từ xe hơi qua xe đạp. Tôi buồn cười cho tính tò mò của mình. Họ đạp xe đi rồi, tôi chăm chút cắt tỉa mấy chậu cây trên bệ cửa sổ, mà hình như lóng ngóng xem bao giờ họ về. Tôi khỏi đợi lâu. Khoảng tiếng đồng hồ sau, họ trở về. Hình như họ đi chợ. Cô loay hoay khóa xe. Cậu bận rộn với túi đồ đạc. Dần dà, tôi có thói quen mới, đứng thơ thẩn trong sân, quan sát cô cậu. Có hôm đổi trời, gió hây hây, cậu đã yên vị trên xe đạp, cô chạy vào nhà, rồi chạy ra, với nón len và khăn quàng cổ. Thấy cô ríu rít nói với cậu, cậu miễn cưỡng quàng khăn và đội nón. Họ đạp xe đi, cậu chạy trước. Hình như cậu muốn đi hướng nào, cô theo hướng đó. Cứ như vậy, đã nhiều tuần lễ...
 
Bạn Đồng Nghiệp

Tôi mới vào hãng được hơn năm nay. Chị thân với tôi hơn những bạn đồng nghiệp thâm niên khác. Tôi nghĩ, chị hơn tôi vài tuổi. Nhưng tôi đã há hốc mồm, khi chị khoe hình chụp chung với “con trai nhỏ”, chị âu yếm gọi, my little son. Nếu nó 13, 14 tuổi, thì cu cậu quá già so với tuổi. Chị nói, cháu 23 rồi đó cô, đôi năm nữa xong đại học. Tôi tròn mắt, chẳng lẽ chị có con lúc 15 tuổi? Chị không mang nữ trang các loại vòng vàng đá quý. Trang sức của chị là các loại khăn quàng. Xuân, hạ, thu, đông, lúc nào y phục của chị cũng thích hợp, trang nhã và sang trọng, trong con mắt một người sống lâu ở Paris như tôi. Ngày nào chúng tôi cũng bâng quơ trò chuyện đôi câu, thật thú vị.
    Tôi nghỉ phép một tuần trở về, thấy vắng chị. Hỏi đồng nghiệp, được biết, chị có việc riêng, làm việc ở nhà, chỉ vào hãng nếu có họp hành quan trọng. Xếp tôi thông báo sơ trong nhóm, vì lý do gia cảnh, chị tạm thời ngưng những chuyến công tác xa nhà. Xếp phân công cho những người cùng phòng làm thay chị. Tuần sau, chị vào hãng, khá trễ. Tôi giật mình, chị xuống sắc quá. Vẻ mặt bơ phờ, mắt có quầng. Ngang qua bàn tôi, chị chỉ nói: “Hi”, rồi tất tả rảo bước về chỗ chị. Tôi ngạc nhiên quá đỗi, sao chị lạnh nhạt với tôi như vậy. Định bụng sẽ hỏi thăm chị vào giờ nghỉ trưa. Đi họp ra, ngang qua bàn chị, không thấy chị ở đó, bàn đã gọn gàng ngay ngắn, không có laptop trên bàn. Chị đã về sớm. Ngày sau, chị vào trễ, cũng vội vội, vàng vàng như vậy. Thấy chị vào bếp cà phê, tôi chạy theo. Đến bên chị, bây giờ tôi mới thấy tóc chị bạc lấm chấm. Nhìn chị hôm nay, tôi bỗng dưng so tuổi chị với tuổi mẹ tôi. Tôi lắc lắc tay chị:
     - Chị, chị khỏe không? Sao mấy hôm nay chị có vẻ bệnh vậy?
    Chị nói nhỏ:
    - Cám ơn, mình cũng thường.
   - Thật không? Em thấy chị mệt mỏi quá đó. Có chuyện gì không? Em có thể giúp được gì không?
    Tôi thấy chị chớp nhanh mắt, nhưng vẫn không giữ được những giọt nước mắt trào nhanh qua mi. Tiếng chị nghèn nghẹn:
    - Mình không sao. Nhưng ông xã mình bệnh, đang nằm bệnh viện.
 
Bác Sĩ Gia Đình

Tôi là bác sĩ gia đình của ông bà. Qua đôi lần trao đổi, tôi được biết ông bà là người Việt, có quốc tịch Đức, đến Đức khi tuổi vừa ngoài đôi mươi. Dù là bác sĩ gia đình của ông bà, tôi biết không nhiều về ông bà, bởi hồ sơ bệnh sử của ông bà rất đơn giản. Bà đến tôi mỗi năm một lần để khám tổng quát, thử máu... Mùa xuân bà ghé qua lấy toa thuốc dị ứng. Vậy thôi. Ông, đôi lần hiếm hoi, lấy hẹn vào khám bệnh, để nhận giấy nghỉ bệnh vì cảm cúm.
    Đây là lần đầu tiên, cả ông bà cùng đến phòng mạch của tôi. Bà cho biết, ông đã vào cấp cứu cách đây hơn hai tuần và đã nằm điều trị ở đó cho đến ngày hôm qua. Bà trao cho tôi xấp hồ sơ của bệnh viện.
    Thật quá bất ngờ, tôi biết quá ít về bệnh sử của ông. Trước mắt, tôi tiếp tục ghi toa của những món thuốc bệnh viện cho ông dùng. Dặn dò bà những điều cần thiết trong thời gian thuốc men điều trị. Kể ra, ông rất may mắn, ca bệnh chỉ ở mức độ nhẹ, không để lại di căn trầm trọng. Ông chỉ có chút vấn đề với trí nhớ ngắn hạn. Tôi thấy bà xanh xao, thần sắc mệt mỏi. Tôi khuyên bà không nên quá lo âu, nhắc bà phải giữ gìn sức khỏe để còn chăm sóc ông. Qua những lần nói chuyện với bà, thấy bà thật rành rẽ về thuốc men và những thuật ngữ y khoa. Hỏi ra, bà không làm trong ngành y hay dược, bà làm trong lãnh vực tài chính. Bà kể, bà chỉ mới tìm hiểu kỹ càng từ khi ông bệnh.
 
Vợ Chồng

Ở phòng hồi sức, sau khi vắn tắt kết quả chẩn đoán bệnh, bác sĩ vỗ nhẹ vai nàng, trấn an: “Xin bà bình tĩnh. Tình trạng sức khỏe của ông nhà hiện giờ đã qua giai đoạn nguy kịch. Ông nhà ở khu Intensive Care trong đêm. Chúng tôi theo dõi liên tục. Mai sáng, chúng tôi sẽ chuyển ông qua khu vực giải phẫu thần kinh não bộ.” Những ngày sau đó, nàng và con cùng nhau vào thăm chàng, gặp bác sĩ, y tá để biết thêm thông tin. Tối về, hai mẹ con thay phiên nhau tiếp điện thoại của gia đình.
    Sau hai tuần nằm trong phòng, bác sĩ cho phép hai mẹ con đưa chàng đi dạo. Ba người đi quanh quẩn trong hành lang mươi lăm phút. Chàng nói mệt, muốn trở về phòng. Nhưng chàng đứng ngẩn ngơ, không định được phòng mình ở đâu để trở về. Nàng buồn xót xa, mặc dù bác sĩ đã cho nàng biết, trí nhớ ngắn hạn của chàng có vấn đề.
    Trong thời gian ngắn, cuộc sống của hai vợ chồng thay đổi không ngờ. Nàng thôi không đi làm xa khỏi thành phố. Nàng hết tham gia những lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ. Nàng chấm dứt những sinh hoạt ngoài giờ làm việc với đồng nghiệp.
    Chàng rời bệnh viện, nhưng vẫn phải đến dự các chương trình phục hồi trí nhớ đôi lần trong tuần. Nàng sắp xếp với hãng, làm việc ở nhà. Lúc có họp hành quan trọng, nàng chạy ào vào văn phòng, họp xong về nhà ngay. Sức khỏe chàng phục hồi nhanh chóng. Sau hai tháng, chàng đi đứng đã bình thường. Theo lời bác sĩ dặn, chàng nên đi dạo thường xuyên và vận động chân tay đều đặn. Chàng bảo: “Đi dạo không không, chẳng có mục đích gì, mất thì giờ, chán lắm”. Chàng chỉ muốn đi đến các siêu thị gần nhà. Nàng chiều ý chàng. Ngày nào nàng cũng “hộ tống” chàng đi hai ba chợ. Chàng thích đi hướng nào, nàng cứ vậy đi theo. Vào chợ, chàng mua nhiều loại bánh, kẹo, sô-cô-la, nước ngọt. Khi nàng nhắc, không nên ăn đồ ngọt nhiều, chàng bực dọc chau mày: “Thứ gì cũng nhịn! Vậy sống để làm gì? Wozu lebt man?” Nàng đành chịu, để chàng mua. Rồi về nhà, nàng bỏ bao, len lén đưa cho bạn bè, nhờ dùng bớt giúp.
    Chàng tỏ vẻ không hài lòng các loại hàng nàng chọn mua. Chàng săm soi, rồi đổi lấy món khác. Nàng biết ý, định mua gì, nàng cũng kêu chàng đến “tham khảo ý kiến”, nói chàng lựa giúp. Đi bộ mua hàng xách nặng không tiện, chàng nàng chuyển qua xe đạp. Trời chiều se lạnh khi chạy xe đạp, thấy chàng mặc áo phong phanh, nàng vội trở lại nhà lấy áo, nón cho chàng. Chàng vùng vằng: “Bộ, hễ em thấy lạnh là anh cũng phải lạnh theo sao?” Vậy mà, khi chị bạn nhắc chàng mặc áo ấm kẻo bị cảm, chàng cảm động, xuýt xoa lời cám ơn. Chàng muốn mình là người quyết định mọi việc, cho dù là những việc nhỏ nhặt không quan trọng. Từ chuyện đi siêu thị Lidl hay Aldi, đến chuyện lên nhà dùng thang máy hay chạy bộ, chàng sẽ làm ngược lại nếu nàng quên, không để chàng nói ý của chàng trước. Dần dà, nàng tập thói quen, phu xướng phụ tùy.
    Nàng thấy chàng ăn say sưa trái anh đào khi ở chơi nhà người bạn. Hôm sau, nàng ghé hàng rau quả, mua ít anh đào. Nàng rửa sạch, bỏ vào dĩa trắng cho đẹp mắt, cẩn thận kèm chén nhỏ để nhả hạt. Chàng đang xem ca nhạc Việt Nam, nàng hí hửng mời. Chàng chăm chăm nhìn màn ảnh, nói: “Cám ơn vợ, em ăn giúp anh đi. Anh không thích ăn loại trái này.” Nàng chưng hửng, rầu rầu đem dĩa trái cây bỏ vào tủ lạnh. Ban đầu, những khi chàng nóng giận vô cớ, nàng vừa buồn, vừa tủi. Đôi lần, nàng gọi cho chị bạn, khóc tấm tức với chị. Chị bạn vỗ về: “Em à, ráng lên nhe. Nó không được khỏe trong người, nên mới như vậy đó. Chớ nói chuyện với nó, chị biết, nó thương em lắm.” Nàng biết chứ. Bây giờ, lúc chàng cầm tay nàng nói lời cám ơn, có lẽ nàng cũng cảm động như mấy chục năm trước chàng nói lời yêu.
    Nàng gặp riêng bác sĩ để xin thêm lời khuyên. Bác sĩ bảo nàng: “Thật may mắn! Bà đã lập tức gọi cấp cứu khi ông ngã bệnh. Bệnh trạng của ông nhà xem ra rất nhẹ. Sức khỏe ông nhà bình phục quá nhanh. Tuy nhiên, ít nhất sáu tháng, ông nhà mới có thể đi làm trở lại. Bà cố gắng kiên nhẫn, tận tình chăm lo ông nhà. Những bệnh nhân như vậy rất cần chỗ dựa tinh thần. Tình thương yêu trong gia đình, người thân vô cùng cần thiết cho họ. Dẫu gì, xin bà đừng quên, ông nhà đã trải qua một cơn xuất huyết não.”

 

-- Hoàng Quân

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.