Hôm nay,  

Thương “gừng cay muối mặn”

8/1/202313:26:00(View: 4059)
Truyện

hinh anh minh hoa

Chị Thiên Kim sinh trưởng vào thập niên năm mươi của thế kỷ trước, trong một gia đình khá giả có cửa hiệu buôn bán ở phố Ngã Giữa, đường Phạn Bội Châu, Huế (nay là đường Phan Đăng Lưu). Hồi học trường Đồng Khánh chị đã nức tiếng hoa khôi, nên mỗi lần tan lớp, có nhiều “cái đuôi” theo về tận ngõ, hoặc trồng cây si trước cổng đợi tan trường. Thế nhưng chị con nhà gia giáo nền nếp, chăm lo học hành. Ngoài giờ học chị còn phụ mẹ làm các công việc nội trợ, đan lát thêu thùa rất khéo tay. Lúc nào cũng ăn nói nhẹ nhàng, duyên dáng. Tính tình đằm thắm chỉn chu nên rất được thầy cô và bạn bè thương mến. Chị có người anh trai tên là Trọng Bình. Anh Gia Phước là bạn của Trọng Bình, thường tới học cùng với anh Trọng Bình và được gia đình rất quý và coi như con cái trong nhà. Anh Gia Phước cũng rất quí Thiên Kim, cưng như em gái của mình. Ba anh em rất hợp nhau. Hai anh ngoài giờ học thì phụ việc trong nhà và bày vẽ thêm cho Thiên Kim học. Sau khi tốt nghiệp tú tài, chị Thiên Kim tiếp tục vào sư phạm. Anh trai chị và anh Gia Phước cũng đang bước vào năm cuối của trường sư phạm, chuẩn bị ra trường. Hồi đó sau khi tốt nghiệp, dựa vào số điểm sẽ được chọn nhiệm sở từ cao đến thấp. Theo nguyện vọng của mình, Anh Gia Phước chọn dạy trường trung tâm nội đô cho gần nhà. Còn anh Trọng Bình lại muốn bay nhảy tới nơi có khí hậu biển ở Mỹ Khê Đà Nẵng và cũng để gần nơi công tác của vị hôn thê của anh ấy.
    Thế rồi anh Gia Phước với công việc giảng dạy gần nhà, cũng đã yên bề gia thất nhưng lòng anh vẫn canh cánh lo cho đứa em đời là chị Thiên Kim mà anh rất cưng quý. Trong nhóm bạn của anh có một người ở trong thành nội. Đó là anh Trần Đình Tùng. Anh Tùng đang học trường võ bị Quốc gia Đà Lạt. Tướng tá coi cũng đặng, rắn rỏi con nhà lính. Có lần anh Gia Phước nói như đùa:
    – Mi thích Thiên Kim đúng không? Mi với nhỏ thiên Kim được đó, mi cưới hắn đi cho tụi tau yên tâm, không thôi tao với Trọng Bình ai cũng có gia đình riêng mà nó chưa yên bề gia thất mặc dù cũng có mấy người đang theo đuổi nhưng Trọng Bình chưa ưa ý.
    Tưởng nói chơi vậy té ra Đình Tùng thích thật. Anh Tùng thầm yêu chị Thiên Kim lâu rồi nhưng đời lính xa nhà nên không dám tỏ, phần vì nể sợ anh trai Trọng Bình, sợ ảnh không đồng ý. Nay nghe anh Gia Phước mở lời anh Đình Tùng mừng như mở cờ trong bụng.Thế rồi trong những ngày nghỉ phép, anh Đình Tùng tới lân la làm quen nàng tiểu thư xinh đẹp và được sự hỗ trợ của hai người anh, chị Thiên Kim cũng xiêu lòng:
    – Em lấy Đình Tùng được đó, nó con nhà đàng hoàng lại chững chạc, vẻ đẹp con nhà lính.
    Mà lính là thần tượng “người hùng” một thời của các nữ sinh. Chị Thiên Kim dần dà cũng có cảm tình với anh Đình Tùng.
    Sau lễ tốt nghiệp của chị không lâu thì anh Đình Tùng cũng mãn khóa học ra trường với cấp bậc thiếu úy lục quân. Đám cưới được cử hành trọng thể trong sự chung vui của họ hàng hai bên và anh em bè bạn. Cô dâu xinh tươi trong tà áo dài lụa hồng, áo choàng voan và khăn vành rất đẹp bên chàng rễ thiếu úy lục quân bảnh bao. Hai người anh là Trọng Bình và Gia Phước rất vui khi cô em gái đã có bờ vai để dựa. Mừng cho hạnh phúc của anh chị. Hai người đã có cuộc sống rất vui vẻ hạnh phúc và rồi vài năm sau đó lần lượt hai đứa con trai kháu khỉnh ra đời, một gia đình đáng mơ ước, êm ấm, ríu rít tiếng trẻ thơ.
    Thế sự đổi dời, sau 1975, anh thuộc quân đội của bên thua cuộc nên anh bị đem đi học tập cải tạo.
    Ngày anh nhận được giấy triệu tập thông báo ra phường trình diện trong giấy có dặn chuẩn bị đồ dùng và thức ăn cho khoảng 10 ngày đến 1 tháng. Chỉ học tập chính sách rồi về.
     Nhưng khi anh tới thì được đọc tên lên xe chở ra các trại cải tạo ở miền núi phía Bắc chưa biết khi nào về. Chị Thiên Kim ở nhà một nách hai đứa con nhỏ. May mà chị còn được nhận đi dạy (diện giáo viên lưu dung). Chị đêm nằm lo lắng không yên, ngày đi làm và vò võ đợi chờ tin tức của anh. Sau sáu tháng chị mới nhận được tin của anh. Lá thư vỏn vẹn mấy dòng cho biết là anh khỏe, đang học tập cải tạo ở trại X 30 thuộc tỉnh …Tin để em hay! Gửi lời thăm ba mẹ hai bên. Nhớ em và con nhiều!
    Chị biết tin anh đỡ lo hơn, mặc dù đoạn đường phía trước còn rất dài. Nhưng có địa chỉ để đi thăm nuôi cũng là quý. Đồng lương thời bao cấp không đủ chi tiêu. Chị chạy vạy gửi con cho ngoại rồi buôn bán chạy chợ thêm bất kể nắng mưa, khuya sớm mới mong có tiền nuôi con, trang trải cuộc sống.
    Từ khi nhận được tin anh, chị bắt đầu chuẩn bị cho cuộc thăm nuôi. Đầu tiên là lên phường xã xin giấy đi đường, mua vé tàu và chuẩn bị mua sắm vật dụng, thức ăn khô, làm các món kho rim khô để anh dùng nhiều ngày, làm một số loại bánh rồi sấy khô, mua thêm áo quần, thuốc men để anh dùng . Xếp vào cả thảy 3 giỏ xách, mỗi giỏ khoảng chục kg rồi tất tả gửi con cho ngoại để đi thăm nuôi chồng. Lên tàu chợ thời bao cấp, nói sao cho hết nỗi cực nhọc, người và hàng hóa, có cả lợn gà vịt chen chúc, người ngợm vật vờ, bơ phờ như ma đói. Có khi tàu chết máy vài ba ngày trong hành trình là chuyện thường. Lên tàu còn nỗi khổ nữa là bị thuế vụ săm soi tưởng là đi buôn, thời này ai đi buôn mà thấy thuế vụ là khiếp đảm như thấy cọp. May mà lên tàu chị gặp được mấy chị vợ cùng cảnh ngộ cũng đi thăm nuôi chồng. Họ giúp đỡ nhau, canh cho nhau để chợp mắt lấy sức, hồi này hở là bị mất cắp. (có người đã từng bị trộm giật hết mấy giỏ đồ bới cho chồng, khóc như mưa)
    Đi bầm giập trên tàu mấy ngày đêm rồi cũng đến. Mấy chị em dắt díu nhau xuống một ga hẻo lánh thuộc xã miền núi biên giới phía Bắc xa xăm. Trời tối hẳn, mấy chị em gồng gánh hàng đi tìm nhà trọ nghỉ chân qua đêm trong cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông biên giới. Sáng hôm sau dậy nấu tạm món mì lót dạ rồi chị em lại lỉnh kỉnh gồng gánh hàng thăm nuôi quày quả trên vai và cuốc bộ đường rừng. Chị gánh không quen, hai vai đỏ tấy, người mệt lả nhưng phải ráng! Hết ngày đường bộ hi vọng gặp anh như tia sáng cuối đường hầm giúp chị quên đi bao nỗi nhọc nhằn. Đi đoạn lại ngồi nghỉ một chút lấy sức, men theo những con đường rừng ngoằn ngoèo, lúc lại phải bì bõm lội suối, rất sợ rắn rết, vắt và cả thú dữ. Cũng nghe nói có người đi thăm nuôi từng bị thú dữ dọc đường ăn thịt, ai cũng rờn rợn, nổi da gà nhưng không còn lựa chọn nào hơn. Tối trời ở đâu thì trải áo mưa ra ngủ lấy sức ở đó, lại làm mồi cho muỗi rừng hút máu no nê. Thêm một ngày đường nữa mới tới trạm đón tiếp thân nhân. Mấy chị em được cán bộ cho nghỉ ở một căn nhà lá ven rừng bên bờ suối, bên kia cách ngăn là trại cải tạo. Nhìn từ xa thấy từng nhóm người tù đi làm: tốp thì cày bừa, trồng trọt để cải thiện bữa ăn.
    Đến sáng hôm sau, mấy chị lần lượt được gọi tên qua gặp người thân. Chị được gọi tên, thật hồi hộp, tay xách nách mang đồ nặng nhưng chị thấy giờ đây không nặng nữa, anh Đình Tùng kia rồi, nhưng chị nhìn không ra, ảnh khác quá! Có chăng chỉ còn ánh mắt thân quen với ánh nhìn đầy yêu thương pha lẫn nỗi mừng tủi… Anh ốm quá, râu tóc mọc lởm chởm, có lẽ anh không hợp khí hậu nơi đây. Anh ngồi đối diện với chị trong một cái bàn gỗ, ở đầu bàn có sự canh gác của hai người cán bộ. Hai anh chị được nói chuyện với nhau (được phép trong 1 h), thăm hỏi dăm ba câu, anh hỏi thăm các con, hai gia đình nội ngoại rồi dặn dò em ráng nuôi con đợi ngày anh về. Chị nhìn anh nước mắt lưng tròng nghẹn ngào không nói được gì nhiều. Cán bộ thông báo đã hết thời gian gặp. Anh nhận quà thăm nuôi rồi lầm lũi bước vô trại, chị nhìn theo anh một quảng, đợi anh đi khuất rồi chị mới trở lại con đường mòn để về lại ga tàu, mua vé trở lại Huế. Ở nhà các con cũng đang đợi chị.
    Một thời gian anh lại bị chuyển đi trại khác, chị lại lần hồi sắm sửa đi thăm nuôi, cứ thế lúc thì chị đi một mình, khi thì đem theo hai con để cho các con được nhìn thấy cha, cho anh thăm, an ủi anh, cải tạo cho tốt (theo lời cán bộ) để sớm đoàn tụ với gia đình, trở về cùng chị làm lụng nuôi con.
    Sau mấy năm đằng đẵng, thế rồi thời gian cải tạo cũng đã hết anh được trở về! Chị nói sao hết nỗi vui mừng, từ đây anh chị bắt đầu làm lại cuộc sống.
    Thời gian đầu anh chưa có quyền công dân, sức khỏe cũng còn yếu nên anh ở nhà chăm con, còn chị đi dạy và chạy chợ. Chị lại ngược xuôi buôn bán tảo tần để lo cho gia đình. Dẫu vất vả nhưng có anh bên cạnh chị cũng ấm lòng. Một năm sau thì sức khỏe của anh đã tốt lên, anh lấy lại phong độ nhờ một tay chị biết chăm lo, vén khéo gia đình. Các con lúc này đã vào tuổi học, những tưởng hạnh phúc vẹn toàn từ đây, bù đắp cho chị những tháng ngày đơn côi, vất vả nuôi con, chờ chồng và thăm nuôi. Nhưng sự đời có những bất ngờ xảy đến ngoài sức tưởng tượng của chị và của những người xung quanh. Anh bắt đầu có tình nhân. Rồi một ngày anh đành đoạn bỏ lại vợ và con thơ để đi theo tình mới. Chị đau khổ tột cùng, tưởng chừng như trời đất sụp đổ dưới chân mình. Không thể gắng gượng dậy được nữa, nhưng tiếng khóc của các con kéo chị trở về để đối diện với thực tế. Dù cay đắng phủ phàng thế nào đi nữa chị cũng ráng sống, các con cần mẹ. Thiên chức làm mẹ cho chị thêm sức mạnh, chị đứng lên, lại lao vào công việc mưu sinh làm lụng nuôi con. Chị lấy công việc quên đi nỗi đắng cay của người vợ đã hết lòng chăm lo chồng nhưng bị chồng ruồng bỏ. Lúc này gia cảnh của chị thật bơ vơ, con còn nhỏ mà không có người đàn ông trụ cột của gia đình, chị một gánh hai vai. Vừa làm mẹ vừa làm cha để dưỡng dục các con. Lúc này chị mới hai mươi bảy tuổi. Dù vất vả là thế nhưng nhan sắc chị vẫn mặn mà lắm nên không thiếu những người đàn ông xung quanh ve vãn. Nhưng không, chị khước từ tất cả. Niềm vui của chị giờ đây là nhìn thấy sự khôn lớn mỗi ngày của các con. Có lần người phụ nữ đơn độc ấy lại bị đứa em cùng cha khác mẹ giành nhà không cho chị ở. Chị lại phải nhờ đến công lý phân xử. Lúc này anh Trọng Bình ở xa, nên may mà còn có anh Gia Phước là người anh tin cậy. Anh Gia Phước chở chị đi lo những thủ tục giấy tờ nhà, mong trắng đen được minh bạch. Anh Gia Phước rất nhiệt tâm và lo lắng cho chị. Có lẽ anh nghĩ dù sao cũng có một phần lỗi. Nỗi đa đoan mà em phải gánh, anh tự trách mình là ngày xưa nhìn lầm người, tác hợp cho em một người chồng nông nổi, bội bạc. Anh ân hận lắm nên càng phải giúp đỡ chị Thiên Kim trong khả năng của mình. Ít ra cũng là chỗ dựa về mặt tinh thần trong lúc chới với như vậy.
    Năm tháng trôi đi, các con của chị nay đã trưởng thành, có công ăn việc làm và cũng đã nên gia thất. Bây giờ con trai lớn của chị lập nghiệp ở Sài Gòn, còn con trai út lập nghiệp tại Huế. Bây giờ chị đã lên chức bà nội với những đứa cháu kháu khỉnh. Chị đã hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng của người mẹ hiền, vắng cha vẫn lo cho con cái ăn học nên người.
    Nay chị đã bước vào mùa thu của người phụ nữ, dẫu đi qua những thăng trầm dâu bể nhưng nét duyên của người con gái Huế xưa vẫn mặn mà đằm thắm! Thỉnh thoảng chị lại về cố hương và có dịp cà phê hàn huyên cùng với anh chị em và những bạn bè tri kỷ.
    Nghe ai hát câu “gừng cay muối mặn”
    Lỗi hẹn rồi còn đâu nghĩa tào khang?
    Chị mỉm cười xa xăm, những đắng cay đã lùi vào dĩ vãng. Giờ còn chăng nỗi niềm thương câu “gừng cay muối mặn” lỡ hẹn rồi, ai nỡ phụ tào khang.
 

– Hoàng Thị Bích Hà

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.