Hôm nay,  

Thương “gừng cay muối mặn”

01/08/202313:26:00(Xem: 4058)
Truyện

hinh anh minh hoa

Chị Thiên Kim sinh trưởng vào thập niên năm mươi của thế kỷ trước, trong một gia đình khá giả có cửa hiệu buôn bán ở phố Ngã Giữa, đường Phạn Bội Châu, Huế (nay là đường Phan Đăng Lưu). Hồi học trường Đồng Khánh chị đã nức tiếng hoa khôi, nên mỗi lần tan lớp, có nhiều “cái đuôi” theo về tận ngõ, hoặc trồng cây si trước cổng đợi tan trường. Thế nhưng chị con nhà gia giáo nền nếp, chăm lo học hành. Ngoài giờ học chị còn phụ mẹ làm các công việc nội trợ, đan lát thêu thùa rất khéo tay. Lúc nào cũng ăn nói nhẹ nhàng, duyên dáng. Tính tình đằm thắm chỉn chu nên rất được thầy cô và bạn bè thương mến. Chị có người anh trai tên là Trọng Bình. Anh Gia Phước là bạn của Trọng Bình, thường tới học cùng với anh Trọng Bình và được gia đình rất quý và coi như con cái trong nhà. Anh Gia Phước cũng rất quí Thiên Kim, cưng như em gái của mình. Ba anh em rất hợp nhau. Hai anh ngoài giờ học thì phụ việc trong nhà và bày vẽ thêm cho Thiên Kim học. Sau khi tốt nghiệp tú tài, chị Thiên Kim tiếp tục vào sư phạm. Anh trai chị và anh Gia Phước cũng đang bước vào năm cuối của trường sư phạm, chuẩn bị ra trường. Hồi đó sau khi tốt nghiệp, dựa vào số điểm sẽ được chọn nhiệm sở từ cao đến thấp. Theo nguyện vọng của mình, Anh Gia Phước chọn dạy trường trung tâm nội đô cho gần nhà. Còn anh Trọng Bình lại muốn bay nhảy tới nơi có khí hậu biển ở Mỹ Khê Đà Nẵng và cũng để gần nơi công tác của vị hôn thê của anh ấy.
    Thế rồi anh Gia Phước với công việc giảng dạy gần nhà, cũng đã yên bề gia thất nhưng lòng anh vẫn canh cánh lo cho đứa em đời là chị Thiên Kim mà anh rất cưng quý. Trong nhóm bạn của anh có một người ở trong thành nội. Đó là anh Trần Đình Tùng. Anh Tùng đang học trường võ bị Quốc gia Đà Lạt. Tướng tá coi cũng đặng, rắn rỏi con nhà lính. Có lần anh Gia Phước nói như đùa:
    – Mi thích Thiên Kim đúng không? Mi với nhỏ thiên Kim được đó, mi cưới hắn đi cho tụi tau yên tâm, không thôi tao với Trọng Bình ai cũng có gia đình riêng mà nó chưa yên bề gia thất mặc dù cũng có mấy người đang theo đuổi nhưng Trọng Bình chưa ưa ý.
    Tưởng nói chơi vậy té ra Đình Tùng thích thật. Anh Tùng thầm yêu chị Thiên Kim lâu rồi nhưng đời lính xa nhà nên không dám tỏ, phần vì nể sợ anh trai Trọng Bình, sợ ảnh không đồng ý. Nay nghe anh Gia Phước mở lời anh Đình Tùng mừng như mở cờ trong bụng.Thế rồi trong những ngày nghỉ phép, anh Đình Tùng tới lân la làm quen nàng tiểu thư xinh đẹp và được sự hỗ trợ của hai người anh, chị Thiên Kim cũng xiêu lòng:
    – Em lấy Đình Tùng được đó, nó con nhà đàng hoàng lại chững chạc, vẻ đẹp con nhà lính.
    Mà lính là thần tượng “người hùng” một thời của các nữ sinh. Chị Thiên Kim dần dà cũng có cảm tình với anh Đình Tùng.
    Sau lễ tốt nghiệp của chị không lâu thì anh Đình Tùng cũng mãn khóa học ra trường với cấp bậc thiếu úy lục quân. Đám cưới được cử hành trọng thể trong sự chung vui của họ hàng hai bên và anh em bè bạn. Cô dâu xinh tươi trong tà áo dài lụa hồng, áo choàng voan và khăn vành rất đẹp bên chàng rễ thiếu úy lục quân bảnh bao. Hai người anh là Trọng Bình và Gia Phước rất vui khi cô em gái đã có bờ vai để dựa. Mừng cho hạnh phúc của anh chị. Hai người đã có cuộc sống rất vui vẻ hạnh phúc và rồi vài năm sau đó lần lượt hai đứa con trai kháu khỉnh ra đời, một gia đình đáng mơ ước, êm ấm, ríu rít tiếng trẻ thơ.
    Thế sự đổi dời, sau 1975, anh thuộc quân đội của bên thua cuộc nên anh bị đem đi học tập cải tạo.
    Ngày anh nhận được giấy triệu tập thông báo ra phường trình diện trong giấy có dặn chuẩn bị đồ dùng và thức ăn cho khoảng 10 ngày đến 1 tháng. Chỉ học tập chính sách rồi về.
     Nhưng khi anh tới thì được đọc tên lên xe chở ra các trại cải tạo ở miền núi phía Bắc chưa biết khi nào về. Chị Thiên Kim ở nhà một nách hai đứa con nhỏ. May mà chị còn được nhận đi dạy (diện giáo viên lưu dung). Chị đêm nằm lo lắng không yên, ngày đi làm và vò võ đợi chờ tin tức của anh. Sau sáu tháng chị mới nhận được tin của anh. Lá thư vỏn vẹn mấy dòng cho biết là anh khỏe, đang học tập cải tạo ở trại X 30 thuộc tỉnh …Tin để em hay! Gửi lời thăm ba mẹ hai bên. Nhớ em và con nhiều!
    Chị biết tin anh đỡ lo hơn, mặc dù đoạn đường phía trước còn rất dài. Nhưng có địa chỉ để đi thăm nuôi cũng là quý. Đồng lương thời bao cấp không đủ chi tiêu. Chị chạy vạy gửi con cho ngoại rồi buôn bán chạy chợ thêm bất kể nắng mưa, khuya sớm mới mong có tiền nuôi con, trang trải cuộc sống.
    Từ khi nhận được tin anh, chị bắt đầu chuẩn bị cho cuộc thăm nuôi. Đầu tiên là lên phường xã xin giấy đi đường, mua vé tàu và chuẩn bị mua sắm vật dụng, thức ăn khô, làm các món kho rim khô để anh dùng nhiều ngày, làm một số loại bánh rồi sấy khô, mua thêm áo quần, thuốc men để anh dùng . Xếp vào cả thảy 3 giỏ xách, mỗi giỏ khoảng chục kg rồi tất tả gửi con cho ngoại để đi thăm nuôi chồng. Lên tàu chợ thời bao cấp, nói sao cho hết nỗi cực nhọc, người và hàng hóa, có cả lợn gà vịt chen chúc, người ngợm vật vờ, bơ phờ như ma đói. Có khi tàu chết máy vài ba ngày trong hành trình là chuyện thường. Lên tàu còn nỗi khổ nữa là bị thuế vụ săm soi tưởng là đi buôn, thời này ai đi buôn mà thấy thuế vụ là khiếp đảm như thấy cọp. May mà lên tàu chị gặp được mấy chị vợ cùng cảnh ngộ cũng đi thăm nuôi chồng. Họ giúp đỡ nhau, canh cho nhau để chợp mắt lấy sức, hồi này hở là bị mất cắp. (có người đã từng bị trộm giật hết mấy giỏ đồ bới cho chồng, khóc như mưa)
    Đi bầm giập trên tàu mấy ngày đêm rồi cũng đến. Mấy chị em dắt díu nhau xuống một ga hẻo lánh thuộc xã miền núi biên giới phía Bắc xa xăm. Trời tối hẳn, mấy chị em gồng gánh hàng đi tìm nhà trọ nghỉ chân qua đêm trong cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông biên giới. Sáng hôm sau dậy nấu tạm món mì lót dạ rồi chị em lại lỉnh kỉnh gồng gánh hàng thăm nuôi quày quả trên vai và cuốc bộ đường rừng. Chị gánh không quen, hai vai đỏ tấy, người mệt lả nhưng phải ráng! Hết ngày đường bộ hi vọng gặp anh như tia sáng cuối đường hầm giúp chị quên đi bao nỗi nhọc nhằn. Đi đoạn lại ngồi nghỉ một chút lấy sức, men theo những con đường rừng ngoằn ngoèo, lúc lại phải bì bõm lội suối, rất sợ rắn rết, vắt và cả thú dữ. Cũng nghe nói có người đi thăm nuôi từng bị thú dữ dọc đường ăn thịt, ai cũng rờn rợn, nổi da gà nhưng không còn lựa chọn nào hơn. Tối trời ở đâu thì trải áo mưa ra ngủ lấy sức ở đó, lại làm mồi cho muỗi rừng hút máu no nê. Thêm một ngày đường nữa mới tới trạm đón tiếp thân nhân. Mấy chị em được cán bộ cho nghỉ ở một căn nhà lá ven rừng bên bờ suối, bên kia cách ngăn là trại cải tạo. Nhìn từ xa thấy từng nhóm người tù đi làm: tốp thì cày bừa, trồng trọt để cải thiện bữa ăn.
    Đến sáng hôm sau, mấy chị lần lượt được gọi tên qua gặp người thân. Chị được gọi tên, thật hồi hộp, tay xách nách mang đồ nặng nhưng chị thấy giờ đây không nặng nữa, anh Đình Tùng kia rồi, nhưng chị nhìn không ra, ảnh khác quá! Có chăng chỉ còn ánh mắt thân quen với ánh nhìn đầy yêu thương pha lẫn nỗi mừng tủi… Anh ốm quá, râu tóc mọc lởm chởm, có lẽ anh không hợp khí hậu nơi đây. Anh ngồi đối diện với chị trong một cái bàn gỗ, ở đầu bàn có sự canh gác của hai người cán bộ. Hai anh chị được nói chuyện với nhau (được phép trong 1 h), thăm hỏi dăm ba câu, anh hỏi thăm các con, hai gia đình nội ngoại rồi dặn dò em ráng nuôi con đợi ngày anh về. Chị nhìn anh nước mắt lưng tròng nghẹn ngào không nói được gì nhiều. Cán bộ thông báo đã hết thời gian gặp. Anh nhận quà thăm nuôi rồi lầm lũi bước vô trại, chị nhìn theo anh một quảng, đợi anh đi khuất rồi chị mới trở lại con đường mòn để về lại ga tàu, mua vé trở lại Huế. Ở nhà các con cũng đang đợi chị.
    Một thời gian anh lại bị chuyển đi trại khác, chị lại lần hồi sắm sửa đi thăm nuôi, cứ thế lúc thì chị đi một mình, khi thì đem theo hai con để cho các con được nhìn thấy cha, cho anh thăm, an ủi anh, cải tạo cho tốt (theo lời cán bộ) để sớm đoàn tụ với gia đình, trở về cùng chị làm lụng nuôi con.
    Sau mấy năm đằng đẵng, thế rồi thời gian cải tạo cũng đã hết anh được trở về! Chị nói sao hết nỗi vui mừng, từ đây anh chị bắt đầu làm lại cuộc sống.
    Thời gian đầu anh chưa có quyền công dân, sức khỏe cũng còn yếu nên anh ở nhà chăm con, còn chị đi dạy và chạy chợ. Chị lại ngược xuôi buôn bán tảo tần để lo cho gia đình. Dẫu vất vả nhưng có anh bên cạnh chị cũng ấm lòng. Một năm sau thì sức khỏe của anh đã tốt lên, anh lấy lại phong độ nhờ một tay chị biết chăm lo, vén khéo gia đình. Các con lúc này đã vào tuổi học, những tưởng hạnh phúc vẹn toàn từ đây, bù đắp cho chị những tháng ngày đơn côi, vất vả nuôi con, chờ chồng và thăm nuôi. Nhưng sự đời có những bất ngờ xảy đến ngoài sức tưởng tượng của chị và của những người xung quanh. Anh bắt đầu có tình nhân. Rồi một ngày anh đành đoạn bỏ lại vợ và con thơ để đi theo tình mới. Chị đau khổ tột cùng, tưởng chừng như trời đất sụp đổ dưới chân mình. Không thể gắng gượng dậy được nữa, nhưng tiếng khóc của các con kéo chị trở về để đối diện với thực tế. Dù cay đắng phủ phàng thế nào đi nữa chị cũng ráng sống, các con cần mẹ. Thiên chức làm mẹ cho chị thêm sức mạnh, chị đứng lên, lại lao vào công việc mưu sinh làm lụng nuôi con. Chị lấy công việc quên đi nỗi đắng cay của người vợ đã hết lòng chăm lo chồng nhưng bị chồng ruồng bỏ. Lúc này gia cảnh của chị thật bơ vơ, con còn nhỏ mà không có người đàn ông trụ cột của gia đình, chị một gánh hai vai. Vừa làm mẹ vừa làm cha để dưỡng dục các con. Lúc này chị mới hai mươi bảy tuổi. Dù vất vả là thế nhưng nhan sắc chị vẫn mặn mà lắm nên không thiếu những người đàn ông xung quanh ve vãn. Nhưng không, chị khước từ tất cả. Niềm vui của chị giờ đây là nhìn thấy sự khôn lớn mỗi ngày của các con. Có lần người phụ nữ đơn độc ấy lại bị đứa em cùng cha khác mẹ giành nhà không cho chị ở. Chị lại phải nhờ đến công lý phân xử. Lúc này anh Trọng Bình ở xa, nên may mà còn có anh Gia Phước là người anh tin cậy. Anh Gia Phước chở chị đi lo những thủ tục giấy tờ nhà, mong trắng đen được minh bạch. Anh Gia Phước rất nhiệt tâm và lo lắng cho chị. Có lẽ anh nghĩ dù sao cũng có một phần lỗi. Nỗi đa đoan mà em phải gánh, anh tự trách mình là ngày xưa nhìn lầm người, tác hợp cho em một người chồng nông nổi, bội bạc. Anh ân hận lắm nên càng phải giúp đỡ chị Thiên Kim trong khả năng của mình. Ít ra cũng là chỗ dựa về mặt tinh thần trong lúc chới với như vậy.
    Năm tháng trôi đi, các con của chị nay đã trưởng thành, có công ăn việc làm và cũng đã nên gia thất. Bây giờ con trai lớn của chị lập nghiệp ở Sài Gòn, còn con trai út lập nghiệp tại Huế. Bây giờ chị đã lên chức bà nội với những đứa cháu kháu khỉnh. Chị đã hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng của người mẹ hiền, vắng cha vẫn lo cho con cái ăn học nên người.
    Nay chị đã bước vào mùa thu của người phụ nữ, dẫu đi qua những thăng trầm dâu bể nhưng nét duyên của người con gái Huế xưa vẫn mặn mà đằm thắm! Thỉnh thoảng chị lại về cố hương và có dịp cà phê hàn huyên cùng với anh chị em và những bạn bè tri kỷ.
    Nghe ai hát câu “gừng cay muối mặn”
    Lỗi hẹn rồi còn đâu nghĩa tào khang?
    Chị mỉm cười xa xăm, những đắng cay đã lùi vào dĩ vãng. Giờ còn chăng nỗi niềm thương câu “gừng cay muối mặn” lỡ hẹn rồi, ai nỡ phụ tào khang.
 

– Hoàng Thị Bích Hà

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào. Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia: “Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.
Vào những ngày cuối năm 2023, khi mà người Mỹ bắt đầu chuẩn bị cho những bữa tiệc Giáng Sinh, năm mới, bàn tán chuyện mua sắm, thì chiến sự giữa Isarel và Hamas chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Trên vùng đất thánh của cả ba tôn giáo lớn, những kiếp người lầm than chỉ mong có một ngày hòa bình, một ngày không bom đạn. Cũng vào những ngày cuối năm 2023, người Mỹ bắt đầu nhìn thấy một viễn cảnh Ukraine bị bỏ rơi, phải chấp nhận đổi đất lấy hòa bình. Nhiều người Việt cho rằng Ukraine sắp là một Việt Nam Cộng Hòa khác, một đồng minh bị Mỹ bỏ rơi, nhưng sau một thời gian có thể nhanh hơn nhiều.
Vào ngày 6 Tháng 12, giới truyền thông Mỹ đồng loạt đưa tin Taylor Swift, nữ ca nhạc sĩ đầy tài năng, được tạp chí Time vinh danh là “Nhân Vật Của Năm 2023” (Person of The Year). Đây là lần đầu tiên một ca nhạc sĩ được bình chọn danh hiệu giá trị này, càng nhấn mạnh thêm sự thành công và sức ảnh hưởng của cô gái hát nhạc pop-đồng quê. Trước đây, nhiều nhân vật được Time chọn từ năm 1927 là các tổng thống Hoa Kỳ, những nhà hoạt động chính trị lỗi lạc.
Bốn câu thơ này được bố tôi (nhà văn Doãn Quốc Sỹ) ghi lại như một giai thoại văn học, làm lời tựa cho tác phẩm Mình Lại Soi Mình. Bố tôi kể rằng khoảng năm 1984, phong trào vượt biên đang rầm rộ. Một người bạn mới gặp đó, mà hôm sau đã vượt biên rồi! Vào một ngày đẹp trời, bố tôi đạp xe từ Sài Gòn qua Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ để thăm chú Nguyễn Đình Toàn. Đến giữa cầu thì thấy chú đang đạp xe theo chiều ngược lại, cũng định đến thăm mình ở căn nhà hẻm Thành Thái. Hai người bạn gặp nhau giữa cầu. Có lẽ chú Toàn đã nhìn những cánh đồng lúa bên Thủ Thiêm, tức cảnh sinh tình, ngẫu hứng làm ra bốn câu thơ này.
Hôm đó, một chàng đương từ Sài Gòn đạp xe tới thăm bạn ở Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ. Chàng vừa đạp xe tới cầu thì gặp bạn cũng đương từ bên kia cầu phóng sang dự định về Sài Gòn thăm mình...
Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an. Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…”
Bùi Giáng qua đời tại Sài-gòn tháng 10-1998, tới tháng 10 năm này, 2023, đúng là 25 năm, một phần tư thế kỷ “Vắng bóng người Điên giữa kinh thành”. Trong tất cả các bút hiệu của Bùi Giáng, Sáu Giáng là tên hiệu dễ thương với mọi người, Bùi Giáng lại thích “anh Sáu Giáng” nhất; bởi/từ cái gốc gác quê mùa, đồi sim, ruộng lúa, tiếng gà trưa, con cò bãi nước xa, cái nền nhà lát gạch hoa, đứa con thứ sáu trong gia đình tộc Bùi, thằng bé Giáng tập bò tập đi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.