Hôm nay,  

Giữa Cõi Đời Bất An

20/12/202400:00:00(Xem: 2522)
Hình-1GettyImages-2177399261

Một cậu bé đi trên đống gạch vụn đổ nát nơi các tòa nhà tại Khan Younis, phía nam Gaza, bị bom Israel phá phủy trong cuộc xung đột xung đột Israel-Hamas, ngày 12 tháng 10 năm 2024. (Ảnh: Majdi Fathi/NurPhoto qua Getty Images).

 
Trong vở hài kịch “As You Like It,” thi hào và kịch tác gia người Anh William Shakespeare (1564-1616) có một câu thoại nổi tiếng:


“Cuộc đời này là một sân khấu,
Và tất cả nam nữ chỉ là các diễn viên;
Họ xuất hiện và ra đi;
Mỗi người thủ nhiều vai trong đời,
Diễn xuất đủ bảy màn bảy giai đoạn đời người.”



Trong câu thoại ở trên, chúng ta thấy Shakespeare nói đến hai điều liên quan đến thân phận con người: Tất cả mọi người đều là diễn viên trên sâu khấu cuộc đời, và đời người thật ngắn ngủi được ẩn dụ trong một vở kịch kéo dài bảy màn.

Là diễn viên trên sân khấu cuộc đời, con người có thể là chủ nhân của những hành vi mà họ thao tác, nhưng cũng có thể con người chỉ diễn xuất theo kịch bản của ai đó soạn ra. Trường hợp đầu thì chính con người là tác nhân của những gì họ diễn xuất. Nói cách khác con người thể hiện vai trò của mình trên sân khấu cuộc đời qua chính những gì họ suy nghĩ, nói và hành động, hay nói theo Đạo Phật là các hành nghiệp. Trường hợp sau thì con người diễn xuất theo ý chí của thế lực siêu nhiên, của đấng sáng thế theo quan điểm thần quyền, hay mệnh trời (thiên mệnh) đã định theo quan điểm của Nho gia.
Nhưng dù con người có là diễn viên xuất chúng đến mức nào đi chăng nữa thì theo Shakespeare thời gian xuất hiện của hắn trên sân khấu cuộc đời cũng chỉ có thể kéo dài trong bảy màn mà thôi. Nói cách khác, không một ai có thể vượt qua được giới hạn của đời sống ngắn ngủi. Mọi người rồi cũng phải đầu hàng tử thần không sớm thì muộn.

Đã có diễn viên thì ắt hẳn phải có khán giả và khán giả đó chính là mọi người có mặt trên đời này. Như vậy, con người vừa là diễn viên vừa là khán giả. Điều bi hài là con người có thể cùng lúc đóng cả hai vai, diễn viên và khán giả! Nhưng làm vậy thì con người sẽ đóng vai trò một khán giả có cá tính chủ quan và đôi khi không tránh khỏi những xung đột trong chính hắn.

Thân phận con người như thế rõ ràng là một bi hài kịch!

cuoi nam nghi ve phan nguoi 02 (2)

Vở kịch “As You Like It” của Shakespeare được trình diễn tại University Of Arkansas Theatre vào năm 2013.(Photo: www.en.wikipedia.org

 
Bi hài kịch
 
Nhưng bi hài kịch của thân phận con người sẽ trở nên nghiệt ngã hơn gấp nhiều lần khi hắn phải xuất hiện trên sân khấu cuộc đời với dẫy đầy những bất an và hỗn loạn vì môi trường sân khấu đã bị ô nhiễm trầm trọng bởi lòng tham lam, sân hận và si mê của đồng loại và của chính hắn nữa.

Một trong những điều làm cho thân phận con người trở nên nghiệt ngã hơn chính là con người đã và đang tạo ra một loại diễn viên khác để đưa lên sân khấu cuộc đời. Loại diễn viên khác này chính là người máy robot. Robot sẽ đóng vai trò của diễn viên chỉ biết biểu diễn theo ý chỉ của con người, vốn cũng là diễn viên. Hiện nay chúng ta đã thấy có nhiều loại robot được đưa vào để thay thế con người trong nhiều lãnh vực, từ quân sự, tôn giáo, y khoa, giáo dục cho đến các dịch vụ trong nhà hàng, khách sạn, v.v…

Kỹ nghệ trí tuệ nhân tạo (Artificial intelligence – AI) ngày càng đi nhanh và xa đáng kinh ngạc. AI đã có thể giúp con người làm được nhiều việc với một tốc độ khó tưởng tượng. Chẳng hạn, AI có thể viết một bài luận văn, dĩ nhiên theo yêu cầu và cung cấp thông tin từ con người, chỉ trong vòng mấy chục giây đồng hồ, trong khi con người phải mất hàng giờ đồng hồ để viết xong. Một thí dụ khác là AI có thể giúp con người vẽ được những tấm hình hoàn toàn mới theo yêu cầu và thông tin do con người đưa ra cũng chỉ trong vòng mấy chục giây. Lợi ích lớn lao nhất mà AI đóng góp cho con người là trong lãnh vực y khoa. Chẳng hạn, những robot được sử dụng trong các phòng giải phẫu có thể giúp các bác sĩ và chuyên gia phẫu thuật làm được những động tác rất tinh vi mà với đôi mắt và đôi tay bình thường của con người rất khó hoàn thành.

Tất nhiên có lợi thì phải có hại. AI qua bàn tay của những con người bất thiện sẽ gây ra nhiều tai hại cho chính người sử dụng và đồng loại. Chẳng hạn, dùng AI để giúp giải những bài toán khó hoặc để viết những bài luận văn sẽ làm cho đầu óc con người mất dần sự mẫn duệ và sáng tạo.

Điều khác biệt ở đây là diễn viên robot chưa có trái tim biết yêu thương và đồng cảm thân phận bi hài của những diễn viên khác. Nhưng ai biết ngày mai sẽ ra sao? Có thể mai này, các diễn viên robot sẽ có khả năng lật đổ ngôi vị chủ nhân ông trên sân khấu cuộc đời của con người lâu nay. Có thể tương lai, các diễn viên robot sẽ tận diệt con người để thống trị hoàn toàn sân khấu cuộc đời. Điều này đã được nhà vật lý học nổi tiếng thế giới Stephen Hawking cảnh báo trong một bản tin của Đài BBC vào ngày 2 tháng 12 năm 2014. Ký giả Rory Cellan-Jones viết rằng:

“Giáo sư Stephen Hawking, một trong những khoa học gia xuất sắc nhất của Anh Quốc, đã nói rằng những nỗ lực tạo ra những cỗ máy biết suy nghĩ đưa ra mối đe dọa đối với chính sự tồn tại của chúng ta. Ông nói với BBC rằng: ‘Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo hoàn chỉnh có thể báo hiệu sự kết thúc của loài người’.”

Thân phận con người trở nên đau đớn hơn trên sâu khấu cuộc đời tràn đầy hận thù, bạo lực và chiến tranh.
 
Hận thù, chiến tranh và khát vọng tự do, dân chủ
 
Sân khấu thế giới mà con người đang hiện hữu ngày càng sôi sục bởi lòng hận thù và bạo lực. Trong những năm gần đây, hầu như ngày nào ở Mỹ cũng có người chết và bị thương vì súng đạn. Các vụ xả súng làm chết nhiều người dường như ngày càng gia tăng. Thậm chí trường học cũng là nơi diễn ra những vụ thảm sát và nạn nhân là các học sinh. Theo Trung Tâm Nghiên Cứu Pew dựa vào các dữ liệu từ cơ quan CDC của Mỹ cho biết, chỉ trong năm 2021 có tới 48,830 người chết do súng tại Hoa Kỳ.

Lòng thù hận đã thâm nhập vào sinh hoạt chính trị ở Mỹ. Đặc điểm đáng quý xưa nay của nền dân chủ Mỹ là sinh hoạt chính trị cởi mở và tôn trọng lẫn nhau dù khác quan điểm hay khác đảng phái. Nhưng trong vòng gần một thập niên trở lại đây môi trường chính trị ở Mỹ đã bị ô nhiễm bởi sự cực đoan và phân hóa trầm trọng. Điều dễ thấy nhất là trong mùa bầu cử năm 2024 vừa rồi khi chúng ta đã chứng kiến các chính trị gia phô bày những lời lẽ và hành động đầy cực đoan và thù hận. Lòng thù hận của các chính trị gia thượng đẳng da trắng đã biến thành động lực để những người Mỹ cực đoan trút giận lên những người Mỹ di dân gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương.

Trên thế giới, lòng thù hận và kỳ thị chủng tộc của con người đưa đến cuộc diệt chủng kinh hoàng nhất cách nay vài ba thập niên. Đó là cuộc diệt chủng vào đầu thập niên 1990s tại Rwanda, với khoảng 800,000 người thuộc chủng tộc Tutsi đã bị sát hại. Tại Miến Điện (Myanmar) vào năm 2017 đã nổ ra sự thanh trừng sắc tộc, với những bạo hành có hệ thống và chủ trương từ chính quyền qua các hình thức hãm hiếp, thủ tiêu, đốt phá làng mạc đã khiến hơn một triệu người Rohingya phải chạy khỏi nước mà đa phần đã và đang tạm cư tại lân bang Bangladesh.

Đừng nói đâu xa, chỉ vài năm trở lại đây thôi, chúng ta đã chứng kiến hai cuộc chiến tranh đẫm máu đã làm cho hơn một triệu người chết và bị thương. Đó cuộc chiến xâm lược của Nga vào Ukraine từ cuối tháng 2 năm 2022 đến nay và cuộc chiến mà nhiều người cho là thanh trừng sắc tộc giữa Do Thái và Palestine từ đầu tháng 10 năm 2023 đến nay. Hãy nhìn vào những thành phố, những làng mạc hoang tàn đổ nát trên khắp đất nước Ukraine và toàn Dải Gaza chúng ta sẽ thấy được hậu quả thảm khốc của chiến tranh. Những đường phố và làng xóm mà trước chiến tranh với biết bao sinh khí và phồn thịnh thì nay đã trở thành những phố ma, những địa ngục trần gian!

Ai có thể biện minh cho sự phi nghĩa khi hàng chục ngàn thường dân vô tội mà trong đó có hàng ngàn trẻ em bị bom đạn giết chết? Còn nhẫn tâm nào hơn khi dội bom vào những khu dân cư, những bệnh viện, những trường học? Những kẻ chủ chiến, những tên bạo chúa thời nay có được cái quyền gì và nhân danh ai để tàn sát sinh mệnh con người vô tội? Putin nói ông đánh Ukraine để bảo vệ người dân Nga sống ở đó bị đe dọa. Hình ảnh những người phụ nữ Ukraine gốc Nga ra đường xua đuổi lính Nga về nước được phổ biến trong những ngày đầu Putin mở cuộc xâm lược Ukraine đã trả lời rõ ràng cho sự ngụy biện của ông ấy. Netanyahu nói Do Thái tấn công vào Gaza là để tự vệ chống lại cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 năm 2023 của Hamas. Nhưng khoảng 45 ngàn thường dân và trẻ em người Palestine bị Do Thái giết chết ở Gaza cho đến nay và hàng trăm ngàn người Palestine khác bị phong tỏa lương thực và thuốc men, có tội gì?

Để thoát ra khỏi thế giới khỏi lửa thù hận và binh đao, con người thường có ước muốn sống trong môi trường của một xã hội tự do và dân chủ. Có tự do và dân chủ con người có thể xây dựng một thể chế cởi mở tâm hồn, nâng cao kiến thức, kính trọng phẩm giá của con người, và tôn trọng pháp luật.

Bởi vì không có tự do, con người sẽ không thể chọn lựa cuộc sống cho chính mình. Không có dân chủ, con người sẽ mất đi quyền được sống như một công dân đúng nghĩa và có thể góp phần vào việc xây dựng và phát triển đất nước, cùng với sự sống và nhân phẩm của con người cũng bị chà đạp. Không có tự do và dân chủ, con người sẽ không còn là một diễn viên sáng tạo trên sân khấu cuộc đời như Shakespeare đã nói, mà chỉ còn là một hình nộm múa may quay cuồng trên sân khấu theo sự giật dây của những nhà lãnh đạo độc tài chuyên chế hay các thế lực chính trị cục bộ.

Trong cuốn sách “Democracy and Education,” triết gia, nhà tâm lý và cải tổ giáo dục người Mỹ John Dewey (1859-1952) đã viết rằng, “Một nền dân chủ không chỉ là hình thức chính quyền; nó chủ yếu là lối sống liên kết, là sự trải nghiệm giao tiếp kết hợp.”

Đúng vậy, tự do và dân chủ là lối sống tự nhiên của con người chứ không phải là ân huệ được các chế độ cai trị ban cho. Chỉ khi nào các nhà lãnh đạo, các thể chế chính trị hiểu được như vậy thì họ mới biết cách làm sao để tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do và dân chủ của người dân. Rất tiếc, không có mấy nhà lãnh đạo chịu hiểu điều đó, đặc biệt là những nhà lãnh đạo có máu độc tài, chuyên chế. Vì vậy, cho đến hôm nay con người vẫn còn phải đấu tranh liên tục để có thể có được một nền tự do và dân chủ. Nhưng trong cuộc chiến giành quyền tự do và dân chủ đó, con người đã không lấy lại được bao nhiêu so với máu xương mà họ đã hy sinh quá nhiều.

Tại một đất nước có nền tự do và dân chủ hàng đầu trên thế giới như Hoa Kỳ vẫn có những nguy cơ rập rình đối với nền tự do và dân chủ. Cụ thể nhất là biến cố ngày 6 tháng 1 năm 2021 khi hàng ngàn người ủng hộ Tổng Thống thất cử Donald Trump đã tấn công vào Tòa Nhà Quốc Hội Liên Bang ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn nhằm mục đích ngăn cản việc Quốc Hội chứng nhận kết quả cuộc tổng tuyển cử năm 2020 để trao chiến thắng cho ứng cử viên Đảng Dân Chủ Joe Biden. Đó là một biến cố lịch sử của Hoa Kỳ cho thấy nền tự do và dân chủ của nước này lần đầu tiên đã có nguy cơ sụp đổ.

Trong khi bài này đang được viết thì một sự kiện lịch sử khác liên quan đến khát vọng tự do và dân chủ của con người cũng đang xảy ra. Đó là chế độ của nhà độc tài Bashar al-Assad đã bị sụp đổ hôm 8 tháng 12 năm 2024 kết thúc 50 năm cai trị bằng bàn tay sắt của gia đình ông tại Syria, với hơn nửa triệu người dân Syria bị giết chết và hàng chục ngàn người bị tù tội. Nhóm nổi dậy có tên Hayat Tahrir al-Sham (HTS) được lãnh đạo bởi Abu Mohammad al-Jolani là lực lượng quân sự chủ chốt trong cuộc cách mạng này. Không ai dám chắc biến cố ngày 8 tháng 12 có phải là bình minh cho nền tự do và dân chủ đối với Syria hay không. Nhưng có một điều chắc chắn rằng đó là giây phút tự do ý nghĩa nhất trong lịch sử của đất nước này.

Gần nửa thế kỷ trước, hàng triệu người Việt Nam đã bỏ nước ra đi bằng đường bộ, bằng đường biển để tìm kiếm tự do và dân chủ cho cuộc sống trong lúc chính quyền cộng sản Việt Nam áp đặt chế độ độc tài toàn trị lên cả nước sau biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau năm mươi năm nhìn lại, người dân Việt Nam ngày nay vẫn còn bị mất quyền tự do và dân chủ. Báo chí, truyền thanh và truyền hình thì nhiều, nhưng chỉ viết và nói theo chỉ đạo của Ban Tuyên Giáo của Đảng mà không được nói và làm khác đi. Từ khi có truyền thông xã hội, người dân Việt Nam đã có cách để viết và nói theo suy nghĩ của mình, theo những gì họ thấy biết. Nhưng thế trận tự do và dân chủ trên mạng xã hội ngày càng nguy ngập vì các công ty cung cấp mạng xã hội bị chính quyền Việt Nam ép phải kiểm duyệt nội dung phổ biến.

Thân phận con người là một bi hài kịch như Shakespeare đã nói, cho nên đau khổ và hạnh phúc luôn bám theo con người như hình với bóng.
 
Đau khổ và hạnh phúc
 
Thi hào Lý Bạch (701-762) ở Trung Quốc đã từng làm thơ cảm thán về thân phận con người không khác hạt bụi. Trong bài thơ Nghĩ Cổ, đại ý thi hào họ Lý nói rằng con người sinh ra như khách qua đường, rồi chết đi giống như kẻ quay về, trời đất chỉ là quán trọ, cùng bi thương như hạt bụi ngàn năm.

Thân phận hạt bụi thì đương nhiên là hẩm hiu và thường thì khổ nhiều hơn vui. Đức Phật đã nói đến 8 thứ khổ đối với con người: Sanh, già, bệnh, chết, yêu thương mà bị lìa xa, thù ghét mà phải gặp mặt, cầu mong mà không được toại nguyện, thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) không điều hòa. Nói chung thì cái khổ của con người xuất hiện trong hai lãnh vực: thân xác và tinh thần, hay nói ngắn gọn là thân và tâm. Khổ về tâm thì thuộc tâm lý như buồn phiền, lo lắng, tức giận, trầm cảm, ghen tương, đố kỵ, v.v… Khổ về thân thì thuộc vật lý như đói khát, bệnh tật, v.v… Thường thì cái khổ của thân sẽ làm cho tâm cũng khổ và ngược lại.

Ngoài cái khổ mà mỗi cá nhân con người gánh chịu riêng, nhân loại còn chịu chung nỗi đau khổ do các hậu quả của biến đổi khí hậu gây ra trong nhiều năm qua. Biến đổi khí hậu khiến cho các tảng băng ở hai đầu Nam và Bắc cực tan nhanh làm cho mực nước biển dâng cao và đã xâm thực vào các vùng đất thấp trên địa cầu. Khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long tại Việt Nam đã báo động nhiều nơi bị nước mặn dâng cao không thể trồng trọt hoa màu. Biến đổi khí hậu cũng làm cho tình trạng hạn hán, bão lụt ngày càng trầm trọng hơn. Do đó kéo theo việc mùa màn bị thất thu và nạn đói khát lan tràn.

cuoi nam nghi ve phan nguoi 03 (2)

Ô nhiễm môi trường gây ra biến đổi khí hậu làm cho cuộc sống con người thêm thê thảm.(Photo: www.pexels.com)

Thống Kê Về Nạn Đói Trên Toàn Cầu (Global Hunger Index) của năm 2024 cho thấy những con số làm chúng ta kinh ngạc:

- Hiện có 733 triệu người (1 trong 11 người) trên toàn cầu đang đối diện với nạn đói mỗi ngày. Đặc biệt tại Châu Phi tỉ lệ này là cứ 5 người thì có một người đói hàng ngày.
- 2.8 tỉ người trên toàn cầu không thể tìm ra thức ăn có đủ dinh dưỡng, chiếm 35% dân số thế giới.
- Tại những quốc gia nghèo, 71.5% người dân không có khả năng có được bữa ăn có đủ dinh dưỡng, trong khi tại các nước giàu tỉ lệ này giảm xuống còn 6.3%.

Điều trớ trêu là cùng lúc với nạn đói đang hoành hành trên hành tinh này thì tình trạng phung phí thực phẩm mà con người tạo ra cũng cao chất ngất. Theo thống kê năm 2024 của Food Waste Index của Chương Trình Môi Trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP), 1/5 số lượng thực phẩm, tương đương với 1 tỉ bữa ăn được tạo ra cho con người tiêu thụ trên toàn cầu hàng ngày đã bị bỏ phí. Sự hoang phí thực phẩm sẽ làm cho nạn đói toàn cầu thêm trầm trọng.
Nghe qua những thông tin như vậy, chúng ta là những người còn có đủ cơm ăn áo mặc mỗi ngày đều cảm thấy mình quá may mắn và hạnh phúc.

Điều làm cho chúng ta không khỏi suy nghĩ là trong thời đại được cho là văn minh tiến bộ như ngày nay, tại sao vẫn còn có quá nhiều người bị bỏ lại sau lưng để gánh chịu đói khát lầm than đến thế? Tại sao người ta có thể không tiếc tiền rừng bạc biển để đầu tư vào việc chế biến các thứ vũ khí tàn sát đồng loại, trong khi nếu dành một phần của số tiền khổng lồ đó để giải quyết nạn đói cho con người thì có phải có ý nghĩa và lợi ích lớn lao hơn không?

Tất nhiên đời người không hoàn toàn chỉ là đau khổ và bi lụy. Ngay cả Đức Phật khi nói rằng cuộc đời là khổ thì Ngài cũng đồng lúc chỉ cho thấy con người có đủ khả năng để kiến tạo cuộc sống hạnh phúc và an vui cho mình. Có một điều chắc chắn là mẫu số chung cho tất cả con người, bất kể họ là thành phần nào trong xã hội và sống vào thời đại nào. Đó là mọi người đều không muốn bị đau khổ và luôn luôn mưu cầu hạnh phúc. Bởi vậy mà trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ đã công bố quyền bình đẳng bất khả tương nhượng của mọi người mà trong đó có quyền mưu cầu hạnh phúc.

Hạnh phúc hiểu theo nghĩa tương đối là sự hài lòng, vui thích đối với những gì con người làm hay những gì họ có được. Nhưng biên tế của khổ đau và hạnh phúc đôi khi rất mong manh, chỉ cách nhau đường tơ kẽ tóc của một ý niệm, một cái móng tâm. Cùng trải nghiệm một hoàn cảnh, nhưng mỗi người sẽ có cảm nhận khác nhau về sự đau khổ và hạnh phúc. Thi hào Nguyễn Du đã mô tả tâm cảnh này trong mấy câu thơ trong Truyện Kiều:

“Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.”

 “Người ngoài cười nụ” là Hoạn Thư vui sướng vì thỏa mãn cơn ghen. “Người trong khóc thầm” là tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều khi biết mình bị Hoạn Thư ép phải đàn và hầu rượu trước mặt Thúc Sinh. Thế đó, cùng nghe tiếng đàn mà người thì hả hê thỏa thích, kẻ thì đớn đau tủi nhục!

Nhưng, sự thỏa thích bỏ ghét của Hoạn Thư không phải là hạnh phúc chân thật mà con người muốn có. Hạnh phúc chân thật không có nơi tâm hồn độc ác của con người. Hạnh phúc chân thật chỉ hiện hữu nơi cõi lòng ngay thẳng, lương thiện.

Vậy thì hạnh phúc thật sự ở đâu? Hạnh phúc đôi khi ở trong tầm tay của chúng ta, nhưng chúng ta không biết nắm bắt. Khi chúng ta đặt hạnh phúc thành mục đích để nhắm tới thì tức thì nó tuột khỏi tầm tay của chúng ta, bởi vì cái ngày mai đó, cái tương lai hạnh phúc đó thực sự không có thật. Nó chỉ là ảo tưởng mà thôi. Làm gì có ngày mai hiện thực? Nếu có cái gì đó có thể tạm gọi là hiện thực thì đó chính là khoảnh khắc hiện tiền ngay bây giờ và ngay ở đây, không đâu xa cả.

Khi chúng ta nhìn thẳng vào mặt mũi của đau khổ, chẳng hạn, mà không tránh né, không trốn chạy - và điều này chỉ có thể làm được trong khoảnh khắc hiện tiền - thì cũng có nghĩa là chúng ta nhìn thấu rõ bộ mặt thật hay bản chất của nó. Như vậy, hạnh phúc thật sự không phải là sự thỏa mãn ước muốn hay khát vọng nào đó, cũng không phải là đạt được điều gì đó mà mình nhắm tới. Hạnh phúc thật sự trong ý nghĩa sâu thẳm nhất chính là khoảnh khắc hiện tiền bình lặng, không một ao ước, không có mục đích gì cả.

Ký giả Luis Andres Henao, trong bản tin “Giant statue of the Buddha in New Jersey becomes interfaith hub and spiritual home for many” được đăng trên trang mạng của hãng thông tấn Mỹ AP hôm 8 tháng 12 năm 2024, đã kể chuyện nhà giáo về hưu 76 tuổi Carol Kruhen ở tiểu bang New Jersey đã thực tập sống trong khoảnh khắc hiện tiền để chuyển hóa khổ đau sau khi chồng bà qua đời:

“Toàn bộ trọng điểm của Phật Giáo là sống trong khoảnh khắc [từng sát na]. Đó là sự thay đổi lớn lao trong cuộc đời tôi để ứng phó với sự đau khổ. Thiền định giúp cho tôi phương thức để tập trung vào sự tích cực.”

Nhà thơ người Mỹ Ralph Waldo Emerson (1803-1882) đã từng viết một câu rất ý nghĩa, “Hãy viết lên trái tim của bạn rằng mỗi ngày đều là ngày tốt nhất trong năm.”

“Viết lên trái tim” là thể hiện niềm tin yêu chân thành nhất của mình đối với cuộc đời này. Với niềm tin yêu chân thành như thế con người trong tư cách là một diễn viên sẽ cảm hóa được môi trường sống và tạo ra được một không khí tốt đẹp nhất trên sân khấu cuộc đời.

Xin mượn lời của thi hào Emerson để chúc quý độc giả “mỗi ngày đều là ngày tốt nhất trong năm.” 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.