Hôm nay,  

Du Tử Lê

16/02/201300:00:00(Xem: 3030)
du-tu-le
“…Và bạn tôi, ông phải vẽ thôi (tôi hay kêu ông bằng tiếng kêu thân mật) khi xem bức tranh “Trên Ngọn Buồn Thánh Thót, Treo cao,” ghi tháng 5-2012 trên website của Hạnh Tuyền (người bạn đời hỗ trợ Du Tử Lê không ít về việc rẽ qua thế giới hội họa, tôi nghĩ vậy) tôi như gặp lại mối đồng cảm của sự cô đơn cùng tận, và phải chăng như tiếng hát đớn đau của Billie Holiday nghe lại những ngày này, qua bản nhạc Strange Fruit, là bài thơ của Abel Meeropol viết năm 1939, với câu cuối: Đây là trái lạ lùng cay đắng – Here is a strange and bitter crop. Bằng sự đắng cay hay niềm hoan lạc của cả đời người, tranh Du Tử Lê là một tiếng nói khác, nhưng ta vẫn dễ nhìn ra, cõi thơ và cõi họa của ông là một ‘Một Đấng Tài Hoa.”
du-tu-le_2
du-tu-le_3
Một mảnh tự hoạ
Đinh Cường, Virginia, 4 June 2012

tôi trôi theo tôi-con sông,

tôi đi xuyên qua đêm. mưa
thấy trong lục bát buổi trưa em, về.
tôi đi xuyên qua lời thề,
thấy tôi thơ ấu bèo nhèo chiến tranh.
tôi đi xuyên qua màu xanh
thấy trên khung vải nổi gân nỗi buồn.
tôi đi xuyên qua mùi nhang,
thấy như buổi sáng điệu đàng…vết thương.
tôi đi xuyên qua cội, nguồn
thấy em. thương lắm. chọn nhầm tôi. hư!
tôi đi xuyên qua đời sau,
thấy em kim, chỉ chờ nhau, mỏi mòn.
tôi đi trở ngược thời gian,
thấy em bé xíu. thuở còn…ngậm ti.
tôi đi xuyên qua giấc mơ,
thấy ồ! sáu chữ cũng vừa…bảy mươi!
tôi đi xuyên qua cuộc đời
thấy như lục bát thôi nôi từng dòng.

tôi trôi theo tôi-con-sông…
(Nov. 2012)


ngọn nến / tôi / cháy hết vẫn ngậm ngùi!

1.
mưa ngồi dậy. vươn vai và, bước tới.
mưa hỏi tôi: - liệu có nhớ ai không?
tôi vội đáp: - nhớ tháng, ngày quê, cũ.
khi mẹ tôi góa bụa sớm vô cùng!

2.
nắng ngồi dậy. vươn vai và, bước tới.
nắng hỏi tôi liệu có nhớ ra ai?
tôi hỏi lá. lá cười tôi ngu, ngốc!
cuộc tình nào không khứng, nhận chia phôi?

3.
đêm ngồi dậy. vươn vai và, bước tới.
đêm hỏi tôi: trăng sáng ở trong lòng?
tôi im lặng nghe nỗi buồn vô hạn!
giữa hư không: huyền thoại đã chôn xong.

4.
biển ngồi dậy. vươn vai và bước tới.
biển hỏi tôi: - nước rút tự bao giờ?
tôi sửa giọng, bảo thủy thần đã đến.
những đường cong viền lửa nấu, nung thơ.

5.
núi nghiêm mặt. vươn vai và, bước tới.
núi hỏi tôi: - hồn, vía ở nơi nào?
tôi những muốn hỏi người đi suốt kiếp?
nhưng, con đường lại chỉ những vì sao!

6.
đời ngồi dậy. vươn vai và, bước tới.
đời hỏi tôi được bao phút an, vui?
tôi ngoảnh lại. thấy người còn đứng đó!

ngọn nến / tôi / cháy hết vẫn ngậm ngùi.

7.
đất ngồi dậy. vươn vai và, bước tới.
đất hỏi tôi: - nguồn gốc những ân tình?
tôi hỏi mắt. mắt nhìn tay bươi cỏ,
tìm chỗ nằm chung một cõi: tôi / em.
(Calf. Nov. 2012.)


trái tim lập mộ (không tro, cốt!!!.)

xiển dương ký ức: cây thu bóng.
kỷ niệm ngồi chung một góc sân.
giọt lệ lăn xa. ngoài trí tưởng.
biệt. biệt trôi dần: thân lạc tâm.

xiển dương bóng tối: nuôi oan, khuất.
gió gọi tên người. ai khuyết danh?
hiên xưa. mái cũ. dòng sông cũng
tự nguyện chôn cùng huyệt lãng quên.

xiển dương câm, nín: trăng bôi mặt.
chim không rớt bóng. thú ghê rừng.
trái tim lập mộ (không tro, cốt!!!.)
kết thúc sau cùng: một kín bưng.

xiển dương đời khác: thêm hư. dối.
tự hỏi thăm mình: hoa. mỗi đêm.
đi qua một kiếp như nghìn kiếp.
ta giống côn trùng! sống thản nhiên.
(Sept. 2011.)


khi buổi chiều cũng bỏ tôi đi!

không ai gọi tôi nữa,
khi buổi chiều đã đi rất xa.
chỉ chút nắng sót góc vườn
gọi tên chính nó!
những bông loa kèn trong hồ thổi một bài sonate
(tôi không biết gì về nhạc cổ điển.
nhưng gió bảo tôi,
có thể đó là bài “Les quatre âges / The four
Ages”
của Charles -Valentine Alkan,
viết cho cha, tám năm trước khi cha chết…)
tôi cũng muốn viết điều gì cho em.
ngay lúc này,
(trước khi…tôi chết.)
ngặt nỗi,
tôi đang buồn quá đỗi!
(……)

tôi vẫn ngồi dưới giàn trái chanh dây.
khi buổi chiều cũng đã bỏ tôi.
đám loa kèn thôi hát.
gió cũng chán tôi
(già háp!)
em hiện ra:
- rạng ngời!
cùng giọt lệ tinh khôi. sớm mai.
sớm mai ta không lời.
sớm mai ta! sớm mai ta!
nhắc nhở:
hãy sống!
hãy sống!
vì những điều chúng ta tha thiết!
(8 - 2012)


bài 60, tân niên.

ơn em: cuối cuộc đời tôi
góc hiên che nắng. mái người che mưa.
ơn em: ngọn nến soi thơ
sông chia biển lớn. rừng từ nguyên sinh.
ơn em: dòng suối quên mình,
sáu mươi tâm, thể còn hiền chiêm bao.
ơn em: tháng lụn. năm hao,
bấc tim vẫn cháy chỗ thờ phượng, xưa.
ơn em: thơm tho bốn mùa.
khuya ngoan gối cũ. chân chờ… gửi sang.
ơn em: chìm, nổi thác, ghềnh.
rừng lau trắng rụng, đợi đền kiếp sau.
ơn em: bát, đũa tìm nhau,
cọng rau, hạt muối biết đâu chia, lìa
ơn em: nhân loại gần, kề
mừng tôi mưa, nắng đi, về có em!
ơn em. đêm. đêm. giường nằm!
cánh tay: tưởng mẹ. ngực buồn: nhớ cha.
ơn em: một thời quê nhà,
mang theo sông núi băng qua nghìn trùng.
em: nơi an nghỉ cuối cùng!
(01-01-2011)


Du Tử Lê

Nhấn Vào Đây Để Tải Tập Tin PDF

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thập niên 1980 và 90, một kẻ vụng về như tôi cũng kiếm được những việc làm tay chân. Tại Philadelphia, tôi sơn nhà, lau kiếng các cửa tiệm và dọn dẹp những căn thuê và văn phòng. Ngày đầu tiên sơn nhà, tôi dựng ngược cầu thang lên tường, miễn cười nhé, nhưng không bị đuổi.
khúc sáng ở edina, minnesota với Q, C&J và bé Summer Grace
Đại hội 48-55 năm nay các bạn đồng khoá giao cho tôi công việc nhẹ nhàng gần như tượng trưng. Đó là đọc và nhặt lỗi chính tả những bài gửi đến. Vậy mà tôi chưa đọc được một bài, vì một vấn đề nguyên tắc: lấy tiêu chuẩn gì mà sửa chính tả của bạn bè.
Tác giả là một cựu không quân Việt gốc Hoa, hiện sống tại Đài Bắc. Bạn đồng khoá Nguyễn Viết Tân kể là năm Mậu Thân, Lý xếnh xáng 18 tuổi, từ Chợ lớn vào Tân Sơn Nhứt gia nhập KQ/ VN khoá 5/69CP. Sau 1975, người ta lo đi Tây đi Mỹ hà rầm, mà không biết cơ duyên nào đã đẩy đưa y ta tới Đài Loan làm nghề lái Taxi.
Tác giả là một cựu không quân Việt gốc Hoa, hiện sống tại Đài Bắc. Bạn đồng khoá Nguyễn Viết Tân kể là năm Mậu Thân, Lý xếnh xáng 18 tuổi, từ Chợ lớn vào Tân Sơn Nhứt gia nhập KQ/ VN khoá 5/69CP. Sau 1975, người ta lo đi Tây đi Mỹ hà rầm, mà không biết cơ duyên nào đã đẩy đưa y ta tới Đài Loan làm nghề lái Taxi.
Với “Hồi Ức Tháng Tư Của Long Mỹ,” cùng viết với người cháu là Hải Quân Trung Tá Paul LongMy Choate, Trương Kim Hoàng Thư đã nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ 2011. Là một kỹ sư điện, cô hiện làm việc tại DPW-LACO.
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn.
Anh ngồi co ro trên chiếc băng ghế ở trạm xe buýt. Nhiệt độ ngoài trời đang ở vào khoảng 20 độ F. Tuyết rơi suốt hai hôm nay vừa mới ngưng được một lúc. Gió thổi từng cơn làm lớp tuyết bám trên các tàng cây rơi vung vãi, cuốn những mảng bụi trắng xóa phủ xuống mặt đất và những mái nhà đứng kế bên.
Tôi đã gặp những người như thế. Những người như mộng, như thật. Những người đã tới để cho tôi thấy đời này như mộng, như thật. Họ tới để nói rằng cõi đời này là bất khả nghĩ bàn, nói mộng cũng hỏng, mà nói thật cũng sai.
Mừng Tuổi Con Tết đến rồi, mừng tuổi cho con gì đây?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.