Hôm nay,  

Bạo Loạn Ở Pháp

23/11/200500:00:00(Xem: 5881)
- Khi bão Katrina thổi vào vùng biển nam nước Mỹ vào đầu tháng 9 vừa qua, Âu châu, và đặc biệt là Pháp, không bỏ lỡ cơ hội vẽ nên mặt trái một xã hội Mỹ xấu xa, tồi tệ. Tờ báo Le Monde của Pháp, số ra ngày 8 tháng 9, 2005, đã cho chạy một tiêu đề lớn trên trang nhất " Sự tàn phá do bảo Katrina đã vạch trần hệ thống (chính quyền) của ông Bush...Bao nhiêu vấn đề bị lảng quên từ nhiều năm nay đang trổi lên hàng đầu: từ cái nghèo khó, sự lơ là phó mặc của nhà nước, đến chuyện kỳ thị chủng tộc âm ỉ", (Katrina's devastation points the finger at Bush's system...Issues forgotten for years are back to the fore: poverty, the state's absence, latent racism, theo Anne Applebaum- The Houston Chronicle). Đúng vậy, Katrina đã phơi bày một xã hội Mỹ không hoàn hảo. Đó là điều người Mỹ không phủ nhận. Nhưng khi bên dưới tiêu đề trên, là một bức hí họa vẽ hình tổng thống Mỹ đang xem một đoạn phim truyền hình chiếu cảnh những xác người da đen lềnh bềnh trên biển nước, với lời ghi chú Bush hỏi ban tham mưu " Chuyện xẩy ra ở đâu vậy, có xa đây lắm không" Phải làm gì giúp họ chứ!. But, what country is is this" Is it far away" We absolutely have to do something!" Cái tàn nhẫn của báo chí đến độ đó quả là quá đáng.

Không đầy hai tháng sau, bạo loạn bùng nổ trên đất Pháp. Hàng đêm, lửa khói rực trời Paris, và nhiều thành phố khác. Hàng ngàn xe (cho đến nay, đã có trên chín ngàn xe hơi bị đốt), công thư, nhà thương, trường học, khu thương mãi bị đốt. Cuộc bạo loạn của con cháu những người Pháp da den gốc Bắc Phi và Ả rập hồi giáo đang bùng nỗ vì những dồn nén bất công, nạn kỳ thị sắc tộc, và những bất lực của chính quyền trên một đất nước vẫn tự hào là xứ của tự do, bình đẳng và bác ái (liberté, égalité, fraternité).

Bạo loạn là sản phẩm của hai chữ tự do, và những trò chơi nhân danh tự do, bình đẳng. Bạo lọan là một phương sách đấu tranh, chính đáng, để đòi hỏi quyền lợi luật định, xóa bỏ bất công, hay không chính đáng, đến từ những âm mưu. Xã hội nào cũngvậy, ngay cả trong những hệ thống tiên tiến nhất, cũng có những bất toàn, những nhức nhối, những vấn đề không dễ giải quyết, những cơn sóng ngầm chờ cơ hội biến thành cuồng nộ. Không kể những rối loạn nhỏ, những vụ bạo loạn lớn cũng đã xẩy ra ở Mỹ, tại Los Angeles năm 1992, và bây giờ, trên đất Pháp, xứ của truyền thống tổ chức xã hội từ lâu đời được xem là trên, trước, và hoàn hảo nhất. Bạo loạn, nếu có gây ra những rối loạn nhất thời, những tàn phá, thì về khía cạnh tích cực, là một thôi thúc sửa đổi để hoàn chỉnh những sai lầm, khiếm khuyết tiềm ẩn của hệ thống, miễn hồ không gây nhiều tác hại đáng tiếc. Riêng trong tháng vừa qua, đã có 14 vụ bạo loạn xẩy ra trên nhiều vùng thế giới, từ tây bán cầu, qua Phi châu, Á châu. Cho nên, vụ bạo loạn hiện nay ở Pháp cũng chỉ là một biến cố tất nhiên khi xã hội còn những vấn đề chưa có giải pháp thích đáng.

Trong vụ bão Katrina, một thiên tai, tổng thống Bush mất hai ngày mới lấy lại được bình tĩnh để đưa ra biện pháp cứu nguy. Ông đã nhận lỗi trước quốc dân về sự chậm trễ và thiếu sửa soạn này, và cũng nhận lỗi về những sơ hở chính sách khiến đã gây ra một tình trạng bất bình đẳng mà những người Mỹ da đen đã phải gánh chịu trong mấy trăm năm qua. Không ai nghi ngờ sự chân thật của ông Bush. Trong vụ bạo loạn đang xẩy ra tại Paris, lan qua hầu hết các tỉnh, thị lớn ở Pháp, và đang có cơn lan qua Âu châu, tổng thống Jacques Chirac đã hoàn toàn im lặng trong suốt 11 ngày, và khi ông lên tiếng, ông đã cũng chỉ mập mờ thú nhận những thiếu sót trong chính sách di dân, kêu gọi bình tĩnh, mà không đưa ra một đường hướng giải quyết nào. Jacques Chirac cho người dân cảm tưởng ông bị tê liệt trước tình thế, hay ông đang muốn đứng ra ngoài biến cố. Điều này khiến người dân Pháp lo ngại, vì thực tế cho thấy đa phần các vụ bạo loạn xẩy ra không phải chỉ đơn thuần vì những bất ổn xã hội, mà động lực chính đàng sau thường là những thao tác hoạt đầu của những xu thế chính trị, hay tôn giáo.

Vụ bạo loạn ở Paris nổ ra từ một biến cố nhỏ: đêm 27 tháng 10, có mấy trẻ vị thành niên vùng ngoại ô Clichy-sous-Bois, phía đông bắc Paris, không hiểu vì một lý do gì, chạy vào một trạm biến điện cao thế trốn cảnh sát. Có hai trẻ, Bouna Traore, 15 tuổi, gốc Mali, và Zyed Benna, 17, gốc Tunis, bị điện giật chết. Tối hôm đó, một số thanh thiếu niên gốc Bắc Phi và Ả rập Phi châu ào xuống đường đấp phá, nổi lửa đốt xe cộ để phản đối sự bạo hành của cảnh sát. Bạo hành lan rộng vì một quả lưụ đạn cay của cảnh sát rơi vào trước cửa một giáo đường hồi giáo, và những lời tuyên bố cứng rắn, vụng về của bộ trưởng nội vụ Sarcozy. Chuyện thật hư chưa rõ, nhưng báo chí, truyền thông thổi phồng sự việc, và đối lập nhảy vào đã kích chính phủ, đổ thêm dầu vào lửa, khiến tình hình mỗi lúc một trầm trọng hơn. Chính phủ không dám thi hành biện pháp mạnh, nên trong những ngày kế tiếp, cuộc bạo loạn, được phối hợp trên mạng internet, lan mạnh đến tất cả các vùng ngoại ô nghèo nàn của Paris, và qua gần 200 vùng tỉnh thị lớn ở Pháp.

Nước Pháp có một tổ chức xã hội và đời sống ổn cố nhờ một chiều dài lịch sử nằm trong tâm điểm của những nền văn minh và văn hóa cao, một dân tộc thuần nhất, và những nỗ lực không ngừng phát triễn, hoằng dương ý niệm tự do, dân chủ và công bằng. Trong hai thế kỷ 18 và 19, chủ nghĩa thực dân đa mở rộng biên cương quốc gia đến những vùng đất mới, gần như bắc Phi, xa như đông nam Á, tây bán cầu, và biến Pháp trở thành một đế quốc hùng mạnh về kinh tế cũng như chính trị. Nhưng cũng vì chính sách này, nước Pháp phải gánh thêm những trách nhiệm liên đới với các vùng đất thuộc địa xa xôi và kém mở mang. Hậu bán thế kỷ 20 đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân. Theo với cuộc cuốn cờ trở về mẫu quốc, là những đoàn người di dân từ những vùng thuộc địa cũ. Hàng triệu dân Bắc Phi, và các nước Ả rập hồi giáo đã đến nhập cư ở Pháp sau khi Pháp trả lại độc lập cho các nước Maroc, Algeria, Tunisia,...và các nước Phi châu khác. Tiếp theo làn sóng di dân đó, là những người nhập cư đến sau do những liên hệ huyết tộc, đòan tụ gia đình, và những thế hệ di dân thứ hai, thứ ba,...Cho đến nay, có khoảng 5 triệu người Pháp gốc Phi châu và Ả rập, chiếm gần 10% dân số. Xã hội Pháp do vậy ngày càng phức tạp, ngày càng có nhiều vấn đề hơn.

Người Pháp chính thống, tự hào với nền văn hóa và văn minh, tự hào về khả năng đồng hóa và hội nhập các dân tộc khác, từ ban đầu, luôn chối bỏ thực tế về một xã hội đa dạng, tạp chủng. Họ tin rằng mỗi khi đã đến và đã sống trên đất Pháp, người di dân sẽ trở thành người Pháp, sẽ bị Pháp hóa, sẽ hành sử và ứng xử như một người Pháp, dầu không chính gốc gaulois, và do vậy, Pháp chủ trương một chính sách di dân không màu sắc, colorless policy. Điều này phản ảnh đúng niềm tự hào dân tộc, và cũng có thể đúng cho thế hệ di dân thứ nhất, khi nhu cầu tìm sống, với những khó khăn và chật vật lúc ban đầu đã khiến họ quên đi bản chất, nguồn gốc, phong tục, tập quán, đồng thời chấp nhận những khác biệt đối xử trong đời sống hàng ngày như một đương nhiên. Nhưng với những thế hệ con cháu của những người di dân thứ nhất, bây giờ đã là những người Pháp, được sinh ra và lớn lên trên đất Pháp, thì họ không bao giờ có thể bằng lòng với số phận của một loại công dân hạng hai, và vì thế, họ trở thành một tập thể quần chúng bất mãn, đối kháng, và sẵn sàng nổi loạn.

Lớp người di dân thứ nhất, đến trên đất Pháp 50 năm, 100 năm trước, đã không thành công trong nỗ lực tạo dựng cuộc sống mới. Sự thất bại một phần từ bản chất, nhưng nguyên nhân chính vẫn là những cấu kết truyền thống của một hệ thống xã hội lâu đời nặng tính trưởng giả. Ngày mới đến Pháp, họ bị cô lập trong những chung cư tập thể, được xây cất vội vàng ở những vùng ngoại ô quanh Paris và những thành phố kỹ nghệ lớn. Họ được hưởng trợ cấp xã hội, dịch vu y tế, những điều kiện sống căn bản, được huấn nghệ, được đi học như những người dân Pháp ở giai tầng thấp nhất. 50 năm sau, họ vẫn còn ở những nơi đó, không có gì khá hơn, nếu không muốn nói là tệ hơn lúc trước nhiều. Không mấy người di dân cũ thoát khỏi được cảnh sống bùn lầy, tồi tệ đó. Dẫu đã có những ngoại lệ, đã có những thành công, nhưng tỷ lệ này quá ít. Không mấy người Pháp gốc Phi châu, hay Ả rập hồi giáo đắc cử vào các cơ quan dân cử, hay nắm giữ các chức vụ thẫm quyền trong nội các. Cho nên, họ không có tiếng nói. Những vùng họ sống, không một người Pháp chính gốc nào muốn bước chân tới, và thật sự không hiện diện dưới mắt du khách. Chung cư mỗi ngày một đông, chật chội, xuống cấp, cha mẹ không còn đủ sức chăm sóc con cái. Những đứa trẻ, được sinh ra và lớn lên, không đủ sức vùng vẫy, thất bại ở học đường (70%), thất nghiệp (50%), thường tụ tập ngoài đường, kết bè kết nhóm, phá phách và những băng đảng tội phạm thành hình. Quanh Paris, những khu ngoại ô như Bobigny, Aulnay-sous-Bois, Clichy-sous-Bois,...chỉ cách vùng ánh sáng của kinh đô ánh sáng chỉ mấy dặm thôi, là những vùng tối tăm, vùng của tội ác, của tội lỗi, cần sa, ma túy. Chính phủ, trong chính sách không phân biệt đối xử, phủ nhận nguồn gốc sắc tộc, đã không thể có những nỗ lực đáng kể để đưa ra những chương trình trợ giúp đặc biệt. Tệ hại hơn, còn xem những biện pháp nhập trường theo quota (affirmative action), chống kỳ thị tại trường học như ở Mỹ là không thực tế và ấu trỉ. Tập thể những người da đen trên đất Pháp ngày càng trở thành những vấn đề lớn cho xã hội, những gáng nặng, những cái gai nhức nhối cho cộng đồng da trắng bản xứ. Nạn kỳ thị tiềm tàng trong đầu óc của những người Pháp chính gốc, đến từ ngay trong cái nhìn của những di dân thành công.

Cho nên, nói theo luận điệu của Nicolas Sarcozy, con của một người di dân gốc Hung gia lợi, bộ trưởng nội vụ đương nhiệm: Xã hội không đồng đều cho mỗi cá nhân, mỗi người phải cố gắng để thoát cảnh nghèo khó. Đành là thế. Nhưng làm sao thoát cảnh nghèo khó khi tỷ lệ thất nghiệp trong vùng lên đến 50%, khi đĩ điếm và ma túy là hai kỹ nghệ lớn nhất, và khi những đứa trẻ lớn lên không thể thoát khỏi vùng ao tù vì không thể xin được nhà ở, kiếm được việc làm ở những vùng khá hơn. Hàng đêm, Sarcozy xuất hiện nơi hiện trường của các vùng bạo động, đã gọi lũ trẻ bất mãn, đập phá đó là những phường vô lại (voyou=street arab), những kẻ lưu manh, dân đen bỉ ổi, những cặn bã xã hội (racaille=scum). Nicolas Sarcozy bị quy trách là nguyên nhân làm bạo loạn bùng lên đến độ không còn kiểm soát được. Sự quy trách đó có phần phiến diện, khi mà Sarcozy vẫn còn được phần đông dân chúng Pháp ủng hộ (57%), khi mà chính sách bất khoan nhượng , zero-tolerance, của ông, trong thực tế là chính sách của hệ thống, và là sự suy nghĩ thầm kín của đa phần người dân Pháp. Có trách ông, là trách thái độ thiếu tế nhị của một người có trách nhiệm, trách ông đã nói ra những điều cấm kỵ.

Cho đến hôm nay, sau 3 tuần bạo loạn, với chín ngàn xe cộ bị đốt, tình trạng đã có phần yên lắng. Một phần do bởi tình trạng khẩn trương được ban hành, và lệnh giới nghiêm được áp dụng, và chính quyền cứng rắn hơn trong nỗ lực tái lập trật tự. Phần khác, lửa bùng lên thì cũng có lúc phải xẹp xuống. Như vậy cững vừa đủ. Ai cũng mệt mõi rồi. Chính Phủ của Dominique de Villepin đề nghị một số cải tổ nhằm nâng đở cộng đồng da đen: tăng 25% ngân sách xây cất chung cư, nâng cấp giáo dục, hướng nghệ (bắt đầu ở tuổi 14), trợ cấp thêm cho các hội đòan , vân vân và vân vân. Tất cả chỉ là những biện pháp cấp thời nhằm thõa mãn một số đòi hỏi, và giải quyết những vấn đề xã hội hiện hữu của một thành phần xã hội không thể gạt bỏ. Điều quan trọng nhất là một chính sách di dân hiện chưa được nói đến.

Mỹ quốc được xây dựng nên từ những người di dân. Với một lịch sử 250 năm lập quốc, với những đợt sóng người không ngừng đổ xuống từ khắp mọi vùng trên thế giới, với một tinh thần, một cái nhìn tương đối hòa hoãn, một thái độ chấp nhận dị chủng, một nỗ lực không ngừng của chính quyền, của các tổ chức ngoài chính quyền (NGO, non governmental organizations), của các hiệp hội, và ngay từ mong muốn sâu xa trong lòng của mỗi người dân, vấn đề kỳ thị chủng tộc vẫn còn là một nhức nhối hàng ngày, và hàng đầu trong cái xã hội tạp chủng này. Chỉ vì một lý do đơn giản: con người sinh ra vốn đã không bình đẳng. Đó là một vấn đề bản chất. Xã hội và luật pháp Mỹ xây dựng trên căn bản cung ứng cho mọi người một sự đồng đều trong cơ hội, equal opportunities. Bỏ qua đi mặt trái của cái cơ cấu tổ chức xã hội, bỏ qua đi những khai thác, bóc lột, lưu manh của giai tầng trên trước,...để chỉ nói đến nguyên tắc, đến cái tốt, thì cơ hội được đặt lên mâm vàng dâng hiến cho mọi người, bất cứ mọi người. Nhưng có nắm bắt được cơ hội hay không, và khi nắm bắt được cơ hội có biết khai thác cơ hội để thăng tiến hay không, thì đó là một vấn đề khác. Cũng vậy, xã hội, và người hữu trách trong tổ chức xã hội, phải trách nhiệm về mọi phúc lợi, trên mọi lãnh vực, cho mọi người dân. Nhưng làm sao bắt xã hội phải trách nhiệm về sự ngu dốt của mỗi cá nhân. Đó cũng là một vấn đề bản chất, một vấn đề cấm kỵ, taboo, không ai được đụng đến. Và vì không được đụng đến, cho nên những điều cấm kỵ đã trở thành những quy trách dễ dàng nhất cho những bất toàn. Tại sao cộng đồng di dân non trẻ của những người gốc Việt trên đất Mỹ đã đốt giai đoạn để trở nên vững mạnh trong một thời gian 30 năm. Tại sao, với những trợ giúp không ngừng của chính quyền, của các tổ chức, từ bao nhiêu năm qua, vẫn còn không biết bao nhiêu người di dân sống nghèo khổ, lạc hậu trong những vùng ổ chuột tràn đầy mọi nơi, những vùng mà người Mỹ quen gọi là những cái pockets of poverty, trong đó những thế hệ 12 năm sống chen chúc với nhau, không nói được tiếng Mỹ, không nhìn xa hơn miếng bánh mì, chai rượu bia mỗi buổi chiều, nói chi đến tương lai, hay một ngày mai tươi sáng"

Với một chiều dài lịch sử cố gắng không ngừng sửa chữa, canh cải, nạn kỳ thị chủng tộc vẫn còn là một vết nhơ của tổ chức xã hội Mỹ. Nói chi đến xã hội Pháp, dầu là xứ sở của những tư tưởng tiến bộ và bao dung nhất, chính cái tinh hoa của dân tộc, cái tinh thần tự tôn, superiority, về dòng giống đã là bức tường thành ngăn chận mọi cơ hội hội nhập của những người dân da đen di dân. Luật pháp và tài nguyên quốc gia không là những phương tiện tất yếu để giải quyết cái bản chất của vấn đề. Đó là không kể đến những điều quá cứng rắn trong chính sách. Thật khó hiểu nỗi cái quyết định cấm các nữ sinh gốc hồi giáo mang mạng che mặt đến trường học của chính phủ Pháp.

Khía cạnh chính trị và nhân sinh đã khó giải quyết. Vấn đề kinh tế còn khó thỏa mãn hơn. Tại Mỹ, di dân là guồng máy kinh tế chủ yếu, làm quốc gia phát triển và mạnh thêm. Từ 1992 đến năm 2000, 10 triệu di dân đến Mỹ. Những người di dân này không giành cướp công việc, ngược lại, tạo thêm công việc, thúc đẩy thăng tiến lao động, tăng mức sản xuất , tăng sản lượng, tăng lợi nhuận cho lớp người đến trước. Tại Pháp, tại Âu châu trong 30 năm qua, thị trường công việc ngày càng eo thắt lại, phần vì cái lục địa đó ngày càng chật chội, phần khác những đòi hỏi phải được thỏa mãn của người dân đã làm giảm dần hiệu năng cần lao: thì giờ làm việc ít hơn (35 giờ/năm ngày mỗi tuần), quyền lợi lao động và hưu bổng nhiều hơn, sa thải nhân viên khó khăn hơn. Trong những điều kiện như vậy, những đứa trẻ lớn lên từ cộng đồng di dân, sự hiện diện của những người nhập cư mới trở thành mối đe dọa sống còn trong một xã hội không nhiều cơ hội. Cho nên, giải quyết vấn đề đòi hỏi những cải tổ sâu rộng từ gốc rễ.

Trong nhiều năm qua, các chính phủ Pháp, tả cũng như hữu, đã không có can đảm nhận chân thực tế, tìm kiếm giải pháp và thật tâm giúp đở tập thể những người da đen bắc Phi, và Ả rập hồi giáo, và biến cố vừa qua chỉ là một giọt nước làm tràn ly.

Sau cuộc trưng cầu dân ý về một hiến pháp cho Liên hiệp Âu châu thất bại tại Pháp cuối tháng 5, 2005, uy thế chính trị của Jacques Chirac hình như không còn gì nữa. Thế hệ lãnh đạo của những chính trị gia lớn lên và trưởng thành trong đệ nhị thế chiến chắc sẽ cáo chung với sự ra đi của Jacques Chirac trong 18 tháng nữa, nhường chỗ cho một thế hệ lãnh đạo mới nhiều khả năng dung nhượng hơn, ít tự hào về quá khứ hơn, ít quan lại hơn, và thực tiển hơn. Đó là thế hệ của những người như Dominique De Villepin, như Nicolas Sarcozy,... ở tuổi 50. Cuộc bạo loạn đang xẩy ra trên đất Pháp có thể cũng chỉ là bề mặt của một cuộc đấu tranh chính trị ngầm giữa hai thế hệ, giữa hai quan niệm nhân sinh và nhân quyền, giữa hai ý niệm và phương cách lãnh đạo.

Cuộc bạo loạn vừa qua ở Pháp, tổn thất lên đến 250 triệu Euro, ngành du lịch Pháp bị khựng lại, các chính khách Pháp đổ lỗi cho báo chí, truyền thông Mỹ đã thổi phồng quá đáng , làm mất mặt nước Pháp trước qốc tế. Lời qua tiếng lại của hai anh chàng cường quốc đồng sàn, dị mộng trước những lủng củng nội bộ, vẫn là những dịp hiếm có để được châm biếm nhau.

Từ Nguyên Nguyễn Văn Thuận.

15-11-2005

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.