Hôm nay,  

Rực Lửa, Rực Nữ Tính

10/02/200600:00:00(Xem: 9340)
- Dương Thu Hương trả lời tờ báo Pháp Giải Phóng, nhân cuốn Chốn Vắng của bà được xuất bản bằng tiếng Pháp

Các tiểu thuyết của Dương Thu Hương không được xuất bản ở Việt Nam nhưng xuất bản ở nước ngoài. Cuộc gặp gỡ với một nữ ly khai, giữa dấn thân và văn chương.

Claire DEVARRIEUX –

Báo Libération Quotidien, số đề ngày Thứ Năm 09-02-2006.

Dương Thu Hương là tiểu thuyết gia Việt Nam được biết nhiều nhất thế giới. Từ khi bà bị bảy tháng tù năm 1991, tác phẩm của bà không còn được xuất bản ở Việt Nam; bà được thả ra nhờ sự can thiệp của các nhân vật ở Tây Phương. Bà bị quản chế nhưng không theo đúng nghĩa quản chế; Phan Huy Đường, người dịch các tác phẩm của bà cho hay: “Bà có thể đi đâu bà muốn nhưng lúc nào cũng có hai công an túc trực trước nhà bà, ngày đêm, báo cáo các khách thăm viếng, các buổi nói chuyện. Bà không thể có cuộc sống riêng tư.”

Sinh năm 1947, bà bị khai trừ khỏi Đảng và Hội Nhà Văn năm 1990. Người ta khiển trách thái độ chống đối và cuộc đấu tranh cho dân chủ của bà. Dịch giả của bà nói: “Trong xã hội trọng Khổng Giáo, chỗ đứng của người đàn bà không có. Trong chiến tranh, người ta cần họ, thật là đau lòng, nhưng sau chiến tranh, người ta thích họ quay về với cái bếp.” Trong chiến tranh, năm 20 tuổi bà đã ra chiến trường và điều khiển một đoàn văn công.

Bà đang ở Paris nhân dịp ra mắt quyển sách - Chốn Vắng - Terre des oublis. Bà tươi cười, vui vẻ. Và bỗng chốc, bà bừng lửa.

- Bà có ý định viết Chốn Vắng lúc nào"

- Câu chuyện này có từ lâu lắm, từ tỉnh Quảng Bình, (để cho chúng tôi dễ hiểu bà ghi chú trên tờ giấy: “Quảng Bình là một tỉnh ở miền Trung, trong chiến tranh đó là tỉnh ở địa đầu chiến tuyến,”) giống như quyển Tiểu Thuyết Vô Đề và Lưu Ly. Tôi viết Tiểu Thuyết Vô Đề là để trả nợ cho các bạn đã khuất, từng người bạn trong quyển sách này hằng ở trong tâm trí tôi, các câu chuyện cứ chất đống trong đầu tôi và tôi phải xả nó ra, từng chuyện một.

Trong chiến tranh, tôi làm việc trong ban văn hóa tỉnh Quảng Bình. Sau khi Miền Nam giải phóng, tôi vẫn còn ở đó. Vùng đất này gây ấn tượng dữ dội trong đầu tôi vì chính nơi đó, tôi đã sống những năm tuổi trẻ, gặp những người khác nhau, lính tráng, dân sự, nạn nhân, thương binh và cả những kẻ đào ngũ, có rất nhiều trại cải tạo ở đó.

- Lúc nào bà cũng nói bà không thích trở thành nhà văn"

- Trở thành nhà văn là chuyện tình cờ, là để giải thoát tôi khỏi đau khổ. Tôi không quá mê nghề này nhưng tôi thấy đây là một phương cách để sống còn. Tuổi vị thành niên, tôi mơ trở thành nhà vô địch chứ không phải nhà văn.

- Vô địch gì"

- Vô định bóng bàn, thể dục dụng cụ!

- Khi nào bà mới quyết định viết"

- Năm 1980. Tôi viết truyện ngắn. Trước đó, trong chiến tranh, năm 1970, để bắt chước bạn bè ở ban văn hóa, tôi viết những bài viết ngắn, vài bài thơ, tất cả chỉ có tính cách nghiệp dư. Thơ chỉ để giải trí, tôi thích lắm. Tôi nhớ lại lúc đó tôi chẳng có một ý tưởng nào trong đầu là tôi sẽ trở thành nhà văn.

Từ năm 1980, tôi tập trung tư tưởng. Tôi bắt đầu cảm thấy có thể theo đuổi nghề này. Một cảm giác mông lung bởi vì tôi phải kiếm sống bằng nghề viết kịch phim. Vào thời buổi đó, kịch phim chẳng có một nghĩa gì, phim ảnh không có đất đứng ở xứ sở nghèo nàn Việt Nam, phim ảnh là dùng để tuyên truyền.

Tôi viết năm kịch phim và đều được thực hiện. Giống như tất cả các nhà viết kịch phim, tôi muốn tham dự vào phần dàn dựng, nhưng đã không thành công tôi lại còn bị phá sản. Tôi viết một tài liệu văn nghệ - le Sanctuaire des espoirs, [dịch nghĩa đen, Giáo đường của những hy vọng, không biết nguyên tác, tên tiếng Việt là gì. ND]. Tôi để hết tiền bạc vào việc thực hiện phim này. Giống như các bài viết về chính trị của tôi, tôi đả kích chế độ vì thế họ hủy hết tất cả âm bản của tôi ở phim trường. Đó là năm 1990, một năm trước khi tôi bị bắt. Làm phim thì khó hơn viết sách, viết không cần tiền, không cần dụng cụ, nhất là không cần tiếp xúc với người khác. Chốn Vắng có thể dài nhưng cũng như các quyển khác, tôi viết đều đều, một năm và vài tháng. Sau đó tôi nghỉ ngơi, lo cho gia đình. Một hoặc hai năm, tùy, rồi tôi bắt qua quyển khác.

- Có lúc nào bà nói đến bà trong tiểu thuyết"

- Chưa. Trong mỗi câu chuyện, tôi viết các tư tưởng, các giấc mơ, các ảo tưởng và các thất tưởng của tôi nhưng chưa bao giờ tôi viết tự truyện. Năm 1994 (1), ở Paris, tôi từng viết hồi ký, lúc đó tất cả các bạn tôi sợ tôi bị bắt lại và sẽ bị giết, họ xin tôi viết lại chuyện của tôi. Tôi viết một bài có tên là Những cây nến trắng, les Chandelles blanches, tôi viết chưa xong và phải trở về Việt Nam. Chưa đến lúc viết xong quyển sách này vì chính tôi đây là quyển sách còn dở dang.

Với tôi, mọi sự đều trong sáng, mọi ranh giới đều rõ ràng. Tiểu thuyết là tiểu thuyết, tự truyện là tự truyện, tôi không muốn lẫn lộn hai loại này. Đó là tính của tôi. Tôi rất cứng ngắt, quá nghiêm túc. Quá đơn giản để tạo một cái gì cầu kỳ vi tế. Tôi thích các ranh giới. Có những chuyện nhiều người cảm thấy dễ chịu khi nó còn mơ hồ giữa tình yêu và tình bạn, giữa tình cảm của anh trai em gái, thêm thắt vào đó một chút cảm giác vô luân, thế là lôi cuốn người khác, thế là làm đảo lộn, thế là bừng lên giấc mơ thầm kín, tạo nên nét đẹp lạ thường cho văn chương. Tôi không thích như thế trong đời sống cũng như trong văn chương. Tôi được giáo dục kỹ càng trong chế độ phong kiến.

- Gia đình của bà như thế nào"

- Một gia đình theo truyền thống. Chấp nhận và giữ kỹ càng các giá trị luân lý cổ truyền. Bà nội tôi là người có đất đai. Bên ngoại làm nghề giáo và bác sĩ. Cha tôi là kỹ sư vô tuyến điện. Ông học trường Cao Đẳng Kỹ Thuật của Pháp ở Hà Nội. Sau đó, ông là kỹ sư trong ngành hàng hải dân sự Pháp cho đến khi có cuộc chiến của hai nước.

- Bà nghĩ gì về cuộc tranh luận hiện nay ở nước Pháp về quá khứ, về thuộc địa"

- Vô ích! Cái gì đã qua là đã qua. Lịch sử lúc nào cũng hình thành như vậy. Người Trung Quốc xâm lăng người Việt, người Pháp đô hộ người Việt, người Việt lấn đất người Cao Miên, người Chàm. Chúng ta, người đương đại, không trách nhiệm về những gì xảy ra trước chúng ta. Tại sao lại đào mồ lên" Mất thì giờ. Có thể tôi quá thẳng. Nhưng tôi không phải là một chính trị gia. Cuộc chiến đấu cho nền dân chủ của tôi là cuộc chiến bất vụ lợi. Tôi tự do, tôi thấy tôi không cần phải làm vui lòng ai.

- Bà dùng tiểu thuyết của bà cho các mục đích chính trị"

- Không. Không bao giờ. Tôi viết tiểu thuyết là để cho tôi, tôi viết các bài chính trị là để cho người khác. Ở đó, tôi dấn thân. Nhưng không đảng phái, không đoàn thể. Tôi lúc nào cũng là một con sói đơn độc. Tôi hài lòng với chính tôi.

- Tại sao bà đấu tranh" Tại sao bà không ngồi nhà để viết"

- Tôi không thể tiếp tục ngồi viết nếu có người cần đến sự giúp đỡ của tôi. Thời gian đã bị đã bị cắt nát, tan hoang, và tôi cũng vậy. Đó là số phận của tôi.

- Tại sao Chốn Vắng là một tiểu thuyết sống sượng, nhắm thẳng vào dục tính như vậy"

- Điều đó làm cho bà ngạc nhiên vì tôi là phụ nữ Á Châu sao" Đó là tính của tôi. Tôi trọng sự thật, con mèo là con mèo, sự thật là sự thật. Tôi không có khả năng khéo léo để nói vòng vòng. Tôi hoàn toàn tự do trong lãnh vực này, tôi làm đúng theo con người của tôi.

- Có phải vì vậy mà tác phẩm của bà bị kiểm duyệt"

- Không, Tiểu Thuyết Vô Đề, Lưu Ly và Chốn Vắng không được xuất bản ở đây, chúng chỉ được xuất bản ở nước ngoài. Tôi viết tiếng Việt, các bạn người Đức, người Pháp của tôi đem bản thảo qua biên giới, sau đó họ gởi qua Pháp. Từ khi tôi được thả ra, họ cấm tôi không được xuất bản. Các ký giả không được quyền nhắc đến tên tôi, nếu họ nhắc, công an sẽ can thiệp.

Cũng rất khó khăn nhưng tôi chọn như thế, tôi ở lại để đấu tranh. Tôi phải làm quen với mọi sự việc kể cả cái chết. Chuyện bình thường.

- Bà không sợ nguy hiểm cho tính mạng"

- Nếu tôi muốn khạc vào quyền lực, tôi không có quyền sợ.

- Làm sao bà có được cái can đảm này"

- Có thể là vì tôi đã quá hèn trong tuổi thanh xuân. Tôi tin trong mỗi con người, ai cũng có một số liều lượng can đảm, hèn nhát, thông minh, ngu đần khác nhau. Tôi không tin có người nào hoàn toàn hèn nhát hay hoàn toàn anh hùng, nếu họ nói như vậy là họ nói dối hay quá kiêu ngạo, đó là những người lừa bịp.

Khi tôi còn trẻ, tôi lấy một người yêu tôi nhưng tôi không yêu họ. Ông kê khẩu súng vào cổ tôi và bắt tôi lấy, nếu không ông sẽ bắn một phát vào cổ họng tôi rồi tự tử. Tôi 20 tuổi, tôi sợ, đó là một tên điên vì yêu, lúc đó cha tôi ở xa. Bà hiểu rõ, trong gia đình, người cha lúc nào cũng là người nâng đỡ con gái. Các em tôi còn nhỏ, tôi là chị cả, tôi sợ chết và tôi không làm sao thoát ra khỏi hoàn cảnh này. Tôi sống khá lâu như cọng rau, như tên nô lệ. Sau khi sinh hai đứa con, tôi đòi ly dị, cha tôi can thiệp, ông bắt tôi phải ở lại với người đàn ông này vì theo chế độ phong kiến, ly dị là làm nhục gia đình. Tôi phải ở lại ngục thất này cho đến năm 1980. Cha tôi là thần tượng của tôi, cha tôi rất tận tâm, rất dễ thương vì thế tôi vâng lời cha tôi. Đó, tôi kiệt sức vì hèn nhát như thế đó!

- Bà viết về chiến tranh, về các trận đánh. Bà có sống trong đó không"

- Trong chiến tranh, tôi là cán bộ văn công, tôi không phải là lính. Tôi không biết bắn nhưng tôi phải đem đoàn văn công của tôi đi theo trận đánh, dù muốn dù không, tôi phải làm quen với bom dội, với xác chết, mùi thịt rửa, mùi hôi thối, mọi sự. Nếu tôi là lính thì tôi đã biết cách chiến đấu với chồng tôi, tôi không biết chiến đấu nên tôi thụ động ở lại để chịu những cú đấm. Đứng trước quyền lực, tôi là người chiến đấu đến cùng dù cho phải chết nhưng để chiến đấu cho chính tôi thì không bao giờ, tôi sợ, tôi nhục; mấy người bán hàng rong, bán cá nếu họ làm nhục tôi, tôi im lặng, tôi tránh xa. Đứng trước chồng tôi, tôi không dám kêu, tôi như người không còn vũ khí.

(1) Năm 1994, bà đã từng được Bộ Trưởng Văn Hóa Pháp Jacques Toubon gắn huy chương Hiệp Sĩ Văn Học Nghệ Thuật

Tin Văn -- Tanvien.net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.