Hôm nay,  

Đi (2)

09/05/200100:00:00(Xem: 5740)
(Cuộc hành trình vượt Hy Mã Lạp Sơn của một cô bé Tây Tạng, tiếp theo kỳ trước, đã đăng trên VBOL vài ngày trước)

Ngày mười chín: Chúng tôi mướn một chiếc xe ngựa và người đánh xe, cho đoạn đèo đầu tiên. Tới một khúc, cầu gẫy, chúng tôi đành bỏ xe đi bộ vượt qua một khu vực sa mạc đá tảng. Chỉ cần bước hụt một bước, là đủ trẹo chân, chấm dứt cuộc hành trình. Phải vượt qua thật mau, bởi vì đây là khu lính biên phòng tuần tiễu nghiêm ngặt. Gió mạnh làm chúng tôi phải bò, nếu không muốn bị thổi bay đi. Tới chiều, tới một khu đất được bao bọc bởi những tảng đá lớn, như những bức tường chắn gió. Chúng tôi quyết định trải qua đêm tại đây, và tất cả chui vào trong chiếc lều một người dùng của tôi.

Ngày hai mươi: Bữa nay thời tiết tốt, nhưng gió vẫn mạnh. Yangdol khá thiểu não so với ba ngày trước đó. Ở độ cao này, mỗi người phải uống ít nhất ba lít nước mỗi ngày, để tránh bị khô nước trong cơ thể. Nước trở thành vấn đề nghiêm trọng, cái lò nấu nước của tôi không hoạt động, do thiếu oxy, và những bị plastic đựng nước uống bị đông cứng. Tôi đã kỳ vọng vào một chuyến đi khá đông người, và được tổ chức chu đáo, nhưng bây giờ, chỉ có ba người, và chúng tôi phải nương tựa vào nhau, nêu muốn sống sót.

Ngày hai mươi mốt: Sáng nay, Kelsang phải cõng Yangdol. Cô bé bị tê cóng. Gió cộng thêm tuyết làm hạn chế tầm nhìn, và như vậy có nghĩa chúng tôi phải di chuyển chậm chạp. Tới trưa, chúng tôi gặp con sông đóng băng đầu tiên, và mặt trời cũng vừa ló dạng. Yangdol đi bên cạnh ông bố. Ông đã thoa mỡ bò lên mặt cô bé, để tránh bị ánh nắng mặt trời làm cháy da. Không khí loãng thêm, và chúng tôi cứ phải ngưng lại để thở. Nhưng ít ra, gió cũng không đủ mạnh để thổi những cục tuyết vào trong mũi chúng tôi, gây nghẹt thở, và một số người tị nạn đã chết vì tình trạng này.

Bất thình lình, chúng tôi nhìn thấy ba đốm đen từ trên đèo chuyển động dần xuống. Hoá ra là một nhóm buôn lậu, trên đường trở về từ Nepal. Kelsang hỏi họ về thời tiết phía trước. Họ nói, đừng lo, chúng tôi sẽ không gặp phải tình trạng thời tiết xấu.

Sau cùng, khát nước, đói, chân tê cóng, chúng tôi tới được đỉnh khu đèo, và là khu vực biên giới với Nepal. Kelsang la lớn, “Lha Gyallo!”, vào đợt gió lạnh băng. “Lha Gyallo”có nghĩa là “Vinh quang cho những vị thần”. Ông trải một tấm khăn trắng lên trên những tảng đá được xếp thành một bàn thờ. Trước mặt chúng tôi là một sa mạc tuyết và băng. Trên đường xuống đèo, Yangdol trượt chân té lăn xuống, may mắn sao, thân thể cô được một miếng đất cao chặn lại. Chân cô hình như hơi bị trẹo, nhưng không chịu để cho bố cõng. Trời đổ tuyết vào lúc hoàng hôn. Sau cùng nhờ ngọn đèn pin, chúng tôi tới được một khu chuồng nuôi gia súc. Cơ thể cạn nước, mệt nhoài, và gần như mê sảng, chúng tôi cứ thế thiếp đi.

Ngày hai mươi hai: Tôi thức giấc, thân thể tê cóng. Bên ngoài, tuyết ngưng rơi. Chúng tôi đào lỗ, và sau cùng cũng có được nước. Xế trưa, chúng tôi gặp một người chăn cừu và đứa con trai của ông. Ông cho biết, có đội tuần tiễu, ở làng ngay phía trước. Chúng tôi lần theo bờ một con sông, trong bóng tối. Bất thình lình, một ngọn đèn pha chiếu về phiá chúng tôi, cả đám nép sau một bức tường thấp. Chúng tôi gặp may, lính tuần chưa đi vào giờ này. Chúng tôi vượt con sông, kiếm chỗ ẩn núp trong đêm.

Ngày hai mươi bốn: Chúng tôi thức dậy, cùng với mặt trời và đi qua một vùng rừng dầy đặc, nhắm một căn cứ du lịch dành cho những người thích lặn lội trong rừng. Chúng tôi ngưng tại một tu viện địa phương, và một vị nữ tu đã lo tắm rửa cho Yangdol, và coi cô bé có chấy rận không.
Ngày hai mươi lăm: Khuỷu chân Yangdol bị đau, sưng phồng. Cô bé không thể nào đi bộ tới Kathmandu, và Kelsang quyết định dùng trực thăng. Bởi vì những người tị nạn không được quyền mua vé, tôi mua luôn cả ba tấm. Ngày mốt mới khởi hành, như vậy là có một ngày nghỉ.

Ngày hai mươi sáu: Trở lại khách sạn, Kelsang gọi một chai uýt ky và mang lên phòng. Tôi tự hỏi, tại sao ông lại cần uống rượu đến như vậy. Tôi đi theo ông. Khi ông cởi giầy, mấy ngón chân của ông bị tê cóng, trở thành xám đen. Ông tính cưa, vì không thể nào chịu nổi cơn đau đớn kéo dài, và ngoài ra, chắc chắc sẽ bị nhiễm trùng. Tôi ôm ông trong tay, nước mắt và mồ hôi của ông dàn dụa trên mặt. Tôi khuyên ông hãy cố đợi tôi đi kiếm vài viên thuốc giảm đau. Dần dần ông dịu xuống, cố cưỡng lại ý nghĩ tự mình cưa những ngón chân.

Ngày hai mươi bẩy: Phi cơ trực thăng sau cùng cũng tới, và một giờ sau, chúng tôi đặt chân xuống Kathmandu. Người Tây Tạng lưu vong đã thành lập được hạ tầng cơ sở dành cho những người tị nạn tại Nepal và Ấn Độ. Có những trung tâm tiếp nhận ở cả hai xứ sở kể trên. Ở đó, họ được chích ngừa, cấp phát giấy tờ, và tiền bạc, đủ cho một chuyến đi tới Dharamsala. Cao Uỷ Tị Nạn hỗ trợ những trung tâm tiếp nhận, và cấp giấy nhập Ấn Độ. Nhưng vẫn có rủi ro, đó là bị những viên chức Nepal đẩy trở lại biên giới Trung Quốc.

Ngày ba mươi: Chúng tôi tới Delhi bằng xe buýt, trên đường tới Dharamsala. Xe chạt cứng thành thử trạm kiểm tra tại biên giới đã không kiểm tra giấy tờ từng người, kể cả tôi. Nhưng họ đánh thêm một thứ “lệ phí phụ trội”, dành riêng cho những người nom có vẻ là dân Tây Tạng. Và những hành khách này không có cách nào hơn, là răm rắp đóng tiền. Có rất nhiều trạm kiểm tra như vậy, và trạm nào cũng đòi tiền lệ phí phụ trội. Cuối cùng cũng tới ngoại vi thành phố, nơi có trung tâm dành cho người tị nạn Tây Tạng. Cô bé Yangdol chưa quen với khí hậu đồng bằng sông Hằng, mặt mũi, da dẻ sưng phồng do độ ẩm, và những vết ruồi muỗi cắn.

Ngày ba mươi mốt: Buổi sáng Kelsang và Yangdol được ghi danh lần nữa và cấp pháp tiền bạc cho chuyến đi tới Dharamsala. Chúng tôi tới đây, vào lúc sáng sớm, trời mưa tầm tã, và tới ngay Viện Trình Diễn Nghệ Thuật Tây Tạng, để yết kiến Đức Dalai Lama. Chúng tôi đứng xếp hàng, trong những bộ quần áo ướt sũng nước, và sau cùng cô bé Yangdol cũng đã được nhìn thấy Đức Phật Sống, bằng xương bằng thịt, trước mặt cô.

Mấy ngày sau. Yangdol được học trong một trong những ngôi trường, do người chị/em của Đức Dalai Lama trông coi, nơi có chừng 2,500 trẻ em Tây Tạng theo học. Ở đó, các em được học tiếng Tây Tạng, tiếng Anh, tiếng Hindu, và thổ ngữ. Ngay sau khi cô bé được ổn định, người cha từ giã cô. Kể từ đó, Yangdol chưa gặp lại người cha. Tuy nhiên, sau đó ít lâu, cô bé khám phá ra rằng, mình có một bà cô hiện đang sống tại Ấn Độ. Người cô đón cô bé về nhà chơi, trong những dịp nghỉ học, và cũng ghé trường thăm cô.

Kể từ năm 1995, hàng năm, nhiếp ảnh viên Bauer lại có được một dịp trở lại Dharamsala, thăm cô bé Yangdol. Ông biết những tiến bộ trong việc học, và đôi khi, chụp hình cô bé. Một khi học xong tại đây, như những trẻ em khác cùng học, cô sẽ có cơ hội được tiếp tục học, đặc biệt là tại Âu Châu, hoặc Hoa Kỳ. Sau đó nữa, sẽ có vài chọn lựa: hoặc làm việc ở hải ngoại, hoặc trở lại Ấn Độ, làm việc trong cơ cấu hành chánh thuộc quốc gia Tây Tạng tự do tại đây, và sau cùng là chọn lựa cam go nhất: trở lại Tây Tạng, làm việc giữa những đồng bào của mình.

(Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về Tây Tạng, qua địa chỉ: Mạng Thông Tin Tây Tạng http://www.tibetinfo.net)

Nguyễn Tuấn Anh dịch bài viết của Manuel Bauer, trên tạp chí Granta số Mùa Xuân 2001. Ông là nhiếp ảnh viên trước đây làm cho cơ quan nhiếp ảnh Thụy Sĩ. Từ đầu thập niên 1990, ông quan tâm tới xứ Tây Tạng, và những người dân sống lưu vong của đất nước này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
Một nhóm khoa học giả quốc tế đã thấy bằng chứng lâu đời nhất về cà ri bên ngoài Ấn Độ và cho thấy ý nghĩa lịch sử của hành trình mà các thành phần gia vị này đã trải qua để đến đó. Các nhà nghiên cứu từ Úc, Việt Nam và Trung Quốc đã tìm thấy món ăn này – được biết đến với hương vị cay nồng của đất, có nguồn gốc từ Nam Á và hiện đã phổ biến trên toàn cầu – có lẽ đã được đưa đến bàn ăn của người Việt Nam hơn 1800 năm trước nhờ mạng lưới thương mại hàng hải.
Ở Hoa Kỳ, khi ai đó qua đời, thường thì họ sẽ được ướp xác, đặt trong quan tài và chôn cất tại nghĩa trang (thổ táng), hoặc mang đi hỏa táng, phần tro cốt sẽ được trả lại cho gia đình, người thân. Tuy nhiên, thổ táng và hỏa táng nay đã không phải là các lựa chọn duy nhất. Ngày càng có nhiều nhà tang lễ, cả các công ty khởi nghiệp và tổ chức vô vụ lợi, cung cấp cho mọi người những nghi thức khác nhau dành cho người đã khuất. Trong tương lai, bối cảnh nghi thức tang lễ sẽ đa dạng hơn…
Đã mấy năm nay, một nhóm tên "Sinh viên tranh đấu cho được nhập học công bằng" (Students for Fair Admissions) kiện Đại Học Harvard về tình trạng mà họ cho là bất công lúc xét các ứng viên Á châu nộp đơn vào trường đại học ưu tú này của Mỹ. Nhóm này cho rằng Harvard thực hành “affirmative action” (hành động khẳng định) và "racial balancing" (quân bình chủng tộc) trong quá trình quyết định ai được nhận ai bị từ chối. Nếu không, theo họ, nếu chỉ căn cứ trên thành tích học tập (academics) tỷ lệ sinh viên Á châu được nhận sẽ là 43% tổng số, hay ít lắm 26% nếu xét thêm về hoạt động ngoại khóa, thể thao hay gia đình quen biết với trường ("legacy"); chứ không thấp như mức 18.7% như hiện nay.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.