Hôm nay,  

Đã Từng Có 40 Năm Người Ta Thi Làm Thơ Ở Thế Vận

8/9/202400:00:00(View: 1678)

The Van
Hồi sinh sự kết hợp giữa thể thao và nghệ thuật từ thời Thế vận cổ đại là kế hoạch mà Pierre de Coubertin, vị Nam tước người Pháp được mệnh danh là cha đẻ của Thế vận hiện đại, luôn ấp ủ.
(Nguồn: pixabay.com)
 
Ở Hy Lạp thời cổ đại, Thế vận hội Olympics không chỉ là sự kiện để các vận động viên thể hiện sức mạnh và tài năng, mà còn là dịp để những tâm hồn thi ca tỏa sáng – họ sẽ mang những vầng thơ của mình xướng lên trước đám đông khán giả đang háo hức. Và thời đó, các vận động viên cũng thường cậy nhờ những thi sĩ nổi tiếng sáng tác những bài thơ ca ngợi chiến thắng vinh quang của mình. Sau đó, những bài thơ này sẽ được các dàn hợp xướng biểu diễn trong các buổi lễ long trọng. Có một thời văn-võ đã song hành với nhau như thế.
 
Hàng ngàn năm sau, hình ảnh kết hợp giữa thi ca và thể thao của Olympics cổ đại đã thu hút Pierre de Coubertin, vị Nam tước Pháp được mệnh danh là cha đẻ của Thế vận hiện đại vào năm 1896. Tuy nhiên, các kỳ Thế vận ngày nay đã không còn giống với tầm nhìn vĩ đại của Coubertin: một cuộc thi là lễ đường cho cuộc tái hôn giữa thể chất và trí tuệ.
 
Nam tước Coubertin tin rằng nhân loại đã “mất hết cảm giác về sự hòa hợp” (eurythmy), từ “eurythmy” dùng để mô tả sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật và thể thao. Ý tưởng này đã được nêu ra từ rất lâu, chẳng hạn như trong tác phẩm The Republic của Plato, Socrates ca ngợi giá trị của một nền giáo dục kết hợp giữa “thể dục thể thao để rèn luyện cơ thể và âm nhạc để nuôi dưỡng tâm hồn.” Các nhà thơ nên tham gia thể thao, còn các vận động viên nên thử sức với thi ca.
 
Triết lý này đã dẫn đến việc đưa 5 bộ môn nghệ thuật trở thành các môn thi đấu chính thức vào Thế vận hội Stockholm năm 1912. Tác phẩm văn thơ hiện đại đầu tiên giành huy chương vàng Olympic là “Ode to Sport,” một bài thơ xuôi của Georges Hohrod và M. Eschbach. Mở đầu của bài thơ:
 
Ôi Thể thao, lạc thú của thánh thần, tinh túy vô ngần của sự sống! Giữa cảnh đời xám xịt đa đoan, giữa muôn trùng khổ lao vô nghĩa, một sứ giả giáng trần, rạng ngời với những thông điệp từ cái thời đã lui dần vào quá khứ, thuở nhân thế còn biết nở nụ cười.
Và tám câu tiếp theo là:
Ôi Thể thao, Thể thao là Danh dự! Những giải thưởng kia có nghĩa lý gì nếu vắng công bằng, minh bạch… Ôi Thể thao, Thể thao là Vui thú! Theo tiếng gọi của Thể thao, thân xác biết vui và mắt hiện ý cười… Ôi Thể thao, Thể thao là Sinh lực tràn đầy!... Ôi Thể thao, Thể thao là Tiến bộ từng ngày!
 
Độc giả ngày nay thường không mấy ấn tượng với bài thơ đầu tiên giành huy chương vàng Thế vận. Nhiều người nhận xét bài thơ này quá “hoa mỹ,” “làm bộ” hoặc “làm quá.” Nhưng theo hội đồng ban giám khảo năm 1912, Hohrod và Eschbach đã hoàn toàn chinh phục được họ.
 
Ý kiến của ban giám khảo năm 1912 viết rằng: “Đối với chúng tôi, ‘Ode to Sport’ rất xuất sắc, và bài thơ này thể hiện được tinh thần mà cuộc thi đang tìm kiếm.
 
Có lẽ chẳng có gì ngạc nhiên khi Hohrod và Eschbach có thể hiểu rõ tinh thần của cuộc thi đến như vậy, vì Hohrod và Eschbach thực ra chỉ là bút danh của người đã nghĩ ra toàn bộ ý tưởng về cuộc thi nghệ thuật trong Thế vận: tác giả của “Ode to Sport” không ai khác hơn là Pierre de Coubertin.
 
Các cuộc khai quật lớn đầu tiên tại Olympia, nơi tổ chức các kỳ Thế vận thời cổ đại, bắt đầu vào những năm 1870. Người ta đã phát hiện được nhiều tàn tích và hiện vật quý giá.
 
Khi còn nhỏ, Coubertin từng được chứng kiên những tàn tích của thành Rome cổ đại trong các chuyến viếng thăm cùng gia đình. Đến khi trở thành thiếu niên, ông theo học tại một trường dòng Jesuit. Nền giáo dục cổ điển càng làm tăng niềm đam mê của Coubertin đối với văn hóa Hy Lạp cổ đại.
 
Richard Stanton, tác giả của cuốn “The Forgotten Olympic Art Competitions,” từng giải thích điều này trong một bài phỏng vấn với tạp chí Smithsonian năm 2012: “Coubertin được nuôi nấng và giáo dục theo phong cách cổ điển, và rất ngưỡng mộ quan niệm của người Hy Lạp cổ về một Thế vận văn võ song toàn, không chỉ giỏi thể thao mà còn xuất sắc trong các lĩnh vực khác. Ông tin rằng Thế vận thời hiện đại cần bao gồm cả các khía cạnh nghệ thuật để tái hiện một cách toàn diện và đầy đủ tinh thần của Thế vận thời cổ đại.
 
Tuy nhiên, các nhà đồng tổ chức lại không mấy mặn mà với ý tưởng của vị Nam tước này. Sau vài lần thất bại, Coubertin thành lập Ủy ban Thế vận Quốc tế (International Olympic Committee, IOC) vào năm 1894, và kỳ Thế vận đầu tiên của thời hiện đại diễn ra tại Athens 2 năm sau đó. Nhưng Thế vận 1896 lại chỉ có các môn thi thể thao như ném đĩa, bơi lội, đấu kiếm và nhảy sào. Dù có thêm một số bộ môn mới vào các năm 1900 (thủy cầu và bắn cung) và 1904 (đấu quyền anh và quần vợt lacrosse), nhưng sự kết hợp mà Coubertin mong muốn vẫn chưa xảy ra.
 
Coubertin vẫn không ngừng theo đuổi mục tiêu của mình. Khi biết rằng Rome sẽ tổ chức Thế vận năm 1908, ông biết rằng cơ hội đã chín muồi. Ngày 5/8/1904, một bài báo của Coubertin có tiêu đề là “Olympiad Roman” được đăng trên trang nhất tờ Le Figaro của Pháp, trong đó viết rằng:
 
Đã đến lúc bước vào một giai đoạn mới, khôi phục lại vẻ đẹp ban đầu của Thế vận. Trong thời hoàng kim của Olympia… nghệ thuật và văn thơ luôn sánh bước cùng thể thao để làm nên các kỳ Thế vận vĩ đại và tuyệt vời. Tương lai cũng vậy… Hãy để La Mã hiện đại mang đến cho chúng ta một kỳ Thế vận điển hình, tái hiện những vinh quang xưa cổ: đưa nghệ thuật chung bước đồng hành với thể thao.
 
Coubertin tin rằng mối liên kết giữa thể thao và nghệ thuật không chết theo sự sụp đồ của Thế vận cổ đại Olympia, và đã đến lúc “khôi phục trọn vẹn lý tưởng này.” Sau ba kỳ Thế vận đầu tiên của thời hiện đại, việc “kết hợp thể chất và trí tuệ” là “khả thi và cần thiết.
 
Hai năm sau, IOC đã tổ chức một hội nghị để cân nhắc về “việc các bộ môn nghệ thuật, đặc biệt là văn thơ, có thể tham gia vào Thế vận như thế nào.” Bàn về văn thơ, họ thảo luận về “khả năng tổ chức các cuộc thi văn thơ trong Thế vận” và “cảm xúc đối với thể thao sẽ là nguồn cảm hứng sáng tác.
 
Coubertin đã có một bài phát biểu đầy nhiệt huyệt tại lễ khai mạc, nhấn mạnh sự tái kết hợp giữa thể chất và trí tuệ. Ông nói: “Nếu tôi nói rằng ngày nay ‘họ’ đang khao khát mãnh liệt được tái hôn’ thì là tôi nói dối. Sự kết hợp này đã từng rất thành công, nhưng sự xa cách lâu ngày đã khiến họ trở nên xa lạ và không mặn mà nữa. Xa mặt thì cách lòng.
 
Cuối cùng, các viên chức đồng ý thêm năm cuộc thi nghệ thuật vào Thế vận năm 1908, bao gồm văn thơ, hội họa, điêu khắc, âm nhạc và kiến trúc. Tất cả các tác phẩm tham gia các hạng mục này, được gọi chung là Năm môn Nghệ thuật phối hợp (Pentathlon of the Muses), cần phải được lấy cảm hứng từ thể thao, khôi phục được sự hòa hợp mà Coubertin đã hình dung.
 
Định mệnh trêu ngươi, ý người không bằng ý trời, những kế hoạch này đã bị một sự kiện lớn phá hỏng: Núi lửa Vesuvius thức giấc vào mùa xuân năm 1906. Khoảng 200 người đã thiệt mạng trong thảm họa này. Dù so ra thì con số không cao bằng hàng ngàn người chết vụ phun trào năm 79 sau Công Nguyên, nhưng sự kiện này đã làm gián đoạn kỳ Thế vận ở Rome, và các cuộc thi buộc phải dời đến London. Các cuộc thi đấu về nghệ thuật sau đó đã bị hoãn lại mãi đến Thế vận Stockholm năm 1912.
 
Số lượng người tham gia trong năm đầu tiên khá thất vọng, chỉ thưa thớt khoảng ba chục thí sinh tham gia hạng mục Năm môn Nghệ thuật phối hợp. Cuộc thi văn thơ chỉ nhận được không tới mười bài dự thi, trong đó có bài thơ của Coubertin viết dưới bút danh Hohrod và Eschbach. Nhưng tình hình đã khả quan hơn trong kỳ Thế vận năm 1924, và đến năm 1928, các cuộc thi nghệ thuật đã thu hút hơn 1,000 bài dự thi. Thời điểm đó, năm hạng mục nghệ thuật lại được phân chia thành các phân mục nhỏ hơn. Thí dụ, các thi sĩ có thể ghi danh thi đấu ở hai thể loại là “sử thi” hoặc “trữ tình.”
 
Tony Perrottet, tác giả của cuốn “The Naked Olympics: The True Story of the Ancient Games,” viết trên tờ New York Times vào năm 2012 rằng ngay từ đầu, hạng mục văn thơ (chủ yếu là thi ca) đã vấp phải nhiều tranh cãi. Thể thao không phải là chủ đề hấp dẫn trong mắt các nhà thơ nổi tiếng đầu thế kỷ 20, “khiến cho các cuộc thi trông giống như một tiết mục phụ, chất lượng bình dân.” Những tên tuổi lớn như William Butler Yeats của Ireland đã không tham gia các cuộc thi văn thơ trong Thế vận, mặc dù anh em của Yeats là Jack Butler Yeats, đã giành huy chương bạc trong bộ môn hội họa vào năm 1924. Robert Graves, một nhà thơ nổi tiếng của Anh, cũng tham gia kỳ Thế vận năm đó và thua cuộc, về sau đã viết trong một bức thư rằng cuộc thi là một “trò hề dở khóc dở cười.
 
Những thách thức mới đã xuất hiện trong Thế vận Berlin năm 1936. Adolf Hitler đã đồng ý tổ chức các kỳ Thế vận sau khi bộ trưởng tuyên truyền Joseph Goebbels nói rằng sự kiện này sẽ là cơ hội để chứng minh sự vượt trội của chủng tộc Aryan. Goebbels cũng đã giúp tổ chức các cuộc thi nghệ thuật trong kỳ Thế vận năm đó, và đã trao tổng cộng 9 huy chương vàng cho tất cả các hạng mục; 5 trong số đó thuộc về người Đức. Chỉ có một vận động viên Hoa Kỳ giành huy chương: Charles Downing Lay giành huy chương bạc ở phân mục “thiết kế quy hoạch đô thị,” thuộc hạng mục kiến trúc. Trong các phân mục thuộc về văn thơ, Đức giành huy chương vàng cho các tác phẩm thơ trữ tình, còn Phần Lan chiến thắng trong phần sử thi.
 
Việc lưu giữ hồ sơ và tác phẩm dự thi của các cuộc thi nghệ thuật tại Thế vận cũng không ổn định, và nhiều tác phẩm thắng giải đã biến mất một cách khó hiểu. Một số nhà phê bình cho rằng lý do có thể là chất lượng của các tác phẩm này không cao, nên chúng không được bảo tồn. Trong một bài đăng trên tờ Times năm 2012, Perrottet đã chỉ ra rằng các nhà sử học đã tìm kiếm trong vô vọng những tác phẩm lớn như “A Rider’s Instructions to His Lover,” của thi sĩ người Đức Rudolf Binding, tác phẩm đã giành huy chương bạc tại Thế vận Amsterdam năm 1928. Hay bài thơ của nhà vô địch bóng bầu dục Pháp Charles Gonnet ca ngợi các vận động viên Hy Lạp cổ đại, có tên là “Before the Gods of Olympia,” đã giành huy chương đồng tại Thế vận Paris năm 1924.
 
Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu về lịch sử Olympics đã cố gắng tìm kiếm bài thơ “Sword Songs” của Dorothy Margaret Stuart, giành huy chương bạc trong Thế vận năm 1924. Một thập niên trước, Perrottet tìm thấy bản sao của bài thơ tại Thư viện Công cộng New York. Bài thơ dài 37 trang “có chút lỗi thời” và “có chút hài hước.” Trong một phần của bài thơ, có cảnh diễn ra ở Scotland thời Trung Cổ, James IV đang quan sát hai chiến binh đấu kiếm với nhau như sau:
“Lách kiếm đâm sâu vào đối thủ
nhát vào khe hở nhát vào khớp
tẩn mạnh vào giáp tay, vào nón
phàm tất hai bên đều chịu đau.”
 
Năm môn thi Nghệ thuật phối hợp đã là một phần của Thế vận trong gần 40 năm, và đã trao tổng cộng khoảng 150 huy chương. Có những cột mốc đáng chú ý như: Robert Dover, vận động viên đồng tính đầu tiên tham gia Thế vận thời hiện đại vào năm 1988; và Ernst van Heerden, nhà thơ đồng tính người Nam Phi giành huy chương bạc trong kỳ Thế vận năm 1948. Tuy nhiên, sau kỳ Thế vận London năm 1948, các hạng mục nghệ thuật đã bị loại bỏ.
 
Quyết định của IOC về việc loại bỏ các hạng mục nghệ thuật khỏi Thế vận được cho là do “lý tưởng cao đẹp về tinh thần nghiệp dư thuần túy thời Corinthian mà Thế vận đã cam kết sẽ gìn giữ.” Theo đó, chỉ những người không kiếm sống từ nghệ thuật mới được tham gia các cuộc thi nghệ thuật trong Thế vận. Việc phân biệt giữa nghệ sĩ chuyên nghiệp và nghiệp dư rất khó khăn, và chất lượng của các tác phẩm dự thi đã giảm xuống mức trung bình.
 
Avery Brundage, chủ tịch IOC từ năm 1952, đã phản đối mạnh mẽ các cuộc thi nghệ thuật trong Thế vận. Richard Stanton, tác giả của cuốn “The Forgotten Olympic Art Competitions,” nghi ngờ sự phản đối của Brundage có thể liên quan đến thất bại ê chề của cá nhân ông này, vì ông này đã từng hai lần tham gia các cuộc thi văn thơ trong Thế vận mà không đạt thành tích cao, chỉ được một giải khuyến khích.
 
Ngày nay, các huy chương về nghệ thuật không còn được liệt kê trong các hồ sơ chính thức của Thế vận. Và dù đôi khi vẫn có những lời kêu gọi đưa các cuộc thi nghệ thuật trở lại với Thế vận, nhưng không thành công.
 
Coubertin qua đời vào năm 1937, và không nhìn thấy sự lụi tàn của các bộ môn nghệ thuật tại Thế vận. Nhưng trong cuốn hồi ký về Olympics xuất bản năm 1931, ông có bàn về lý do tại sao các bộ môn nghệ thuật trong Thế vận lại khó có thể thành công
 
Nam tước viết: “Nguyên nhân chính có thể được tóm tắt mấy từ: nỗi sợ cổ điển.” Ông tin rằng nỗi sợ này tràn ngập mọi hạng mục. Lấy thí dụ về văn thơ: thi sĩ “không thể mô tả chính xác niềm hân hoan của nỗ lực thể thao vì chính bản thân họ không quen thuộc với điều đó.” Còn trong hội họa, “các cảnh về thể thao đòi hỏi nhiều đường nét hơn màu sắc, điều này không hợp với khuynh hướng nghệ thuật đương thời.” Vậy còn âm nhạc thì sao? Coubertin viết: “Công chúng cũng không còn thích thú với các bản cantata ngoài trời.
 
Nguyên Hòa biên dịch
 
Nguồn: “Poetry Was an Official Olympic Event for Nearly 40 Years. What Happened?” được đăng trên trang Smithsonianmag.com.
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.
Mục tiêu ban đầu khi Tổng thống John F. Kennedy thành lập USAID trong cuộc chiến tranh lạnh với Nga vào năm 1961, nội các của ông không chỉ nhắm đến các viện trợ dân sự và nhân đạo mà còn mang mục đích sâu xa hơn: Đó là sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác sẽ bảo vệ cho nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Mục đích này vẫn không thay đổi sau hơn sáu thập niên hoạt động của USAID, qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Bởi lợi ích của nước Mỹ nằm khắp thế giới, những sự giúp đỡ, viện trợ trước mắt mang lại lợi ích chiến lược lâu dài cho nước Mỹ. Các nghiên cứu về USAID cho thấy quyền lực mềm của nước Mỹ do USAID đã mang lại thiện cảm về nước Mỹ, giúp hàng hóa, sản phẩm Mỹ được ưa chuộng tại các thị trường nội địa và gián tiếp giúp cho các tập đoàn Mỹ nhận được các hợp đồng kinh tế to lớn so với các đối thủ. Ngược lại, khi thiện cảm này bị mất đi, hay thậm chí bị ghét bỏ, làn sóng tẩy chay hàng Mỹ là lẽ đương nhiên. Những chương trình giáo dục, huấn nghệ cho trẻ em các nước chiến tranh
Doanh nhân Donald Trump đã khởi xướng trào lưu dân tuý và hai lần thắng cử tổng thống. Ngay khi xuất hiện lần đầu tiên trên chính trường để vận động tranh cử năm 2016, Trump không có tham vọng thu tóm quyền lãnh đạo Đảng Cộng hoà trong ý tưởng thù địch, mặc dù thể hiện nhiều quan điểm chống đối gay gắt. Ngược lại, ngày nay, "chủ thuyết Trump" chế ngự toàn diện mọi sinh hoạt của đất nước. Thực ra, khi nhìn lại hoạt động của Đảng trong thời hiện đại, đây là kết quả của một tiến trình dài nhằm tái định hình chiến lược bảo thủ mà Đảng đã đề ra vào những năm 1960.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.