Hôm nay,  

Đã Từng Có 40 Năm Người Ta Thi Làm Thơ Ở Thế Vận

09/08/202400:00:00(Xem: 1681)

The Van
Hồi sinh sự kết hợp giữa thể thao và nghệ thuật từ thời Thế vận cổ đại là kế hoạch mà Pierre de Coubertin, vị Nam tước người Pháp được mệnh danh là cha đẻ của Thế vận hiện đại, luôn ấp ủ.
(Nguồn: pixabay.com)
 
Ở Hy Lạp thời cổ đại, Thế vận hội Olympics không chỉ là sự kiện để các vận động viên thể hiện sức mạnh và tài năng, mà còn là dịp để những tâm hồn thi ca tỏa sáng – họ sẽ mang những vầng thơ của mình xướng lên trước đám đông khán giả đang háo hức. Và thời đó, các vận động viên cũng thường cậy nhờ những thi sĩ nổi tiếng sáng tác những bài thơ ca ngợi chiến thắng vinh quang của mình. Sau đó, những bài thơ này sẽ được các dàn hợp xướng biểu diễn trong các buổi lễ long trọng. Có một thời văn-võ đã song hành với nhau như thế.
 
Hàng ngàn năm sau, hình ảnh kết hợp giữa thi ca và thể thao của Olympics cổ đại đã thu hút Pierre de Coubertin, vị Nam tước Pháp được mệnh danh là cha đẻ của Thế vận hiện đại vào năm 1896. Tuy nhiên, các kỳ Thế vận ngày nay đã không còn giống với tầm nhìn vĩ đại của Coubertin: một cuộc thi là lễ đường cho cuộc tái hôn giữa thể chất và trí tuệ.
 
Nam tước Coubertin tin rằng nhân loại đã “mất hết cảm giác về sự hòa hợp” (eurythmy), từ “eurythmy” dùng để mô tả sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật và thể thao. Ý tưởng này đã được nêu ra từ rất lâu, chẳng hạn như trong tác phẩm The Republic của Plato, Socrates ca ngợi giá trị của một nền giáo dục kết hợp giữa “thể dục thể thao để rèn luyện cơ thể và âm nhạc để nuôi dưỡng tâm hồn.” Các nhà thơ nên tham gia thể thao, còn các vận động viên nên thử sức với thi ca.
 
Triết lý này đã dẫn đến việc đưa 5 bộ môn nghệ thuật trở thành các môn thi đấu chính thức vào Thế vận hội Stockholm năm 1912. Tác phẩm văn thơ hiện đại đầu tiên giành huy chương vàng Olympic là “Ode to Sport,” một bài thơ xuôi của Georges Hohrod và M. Eschbach. Mở đầu của bài thơ:
 
Ôi Thể thao, lạc thú của thánh thần, tinh túy vô ngần của sự sống! Giữa cảnh đời xám xịt đa đoan, giữa muôn trùng khổ lao vô nghĩa, một sứ giả giáng trần, rạng ngời với những thông điệp từ cái thời đã lui dần vào quá khứ, thuở nhân thế còn biết nở nụ cười.
Và tám câu tiếp theo là:
Ôi Thể thao, Thể thao là Danh dự! Những giải thưởng kia có nghĩa lý gì nếu vắng công bằng, minh bạch… Ôi Thể thao, Thể thao là Vui thú! Theo tiếng gọi của Thể thao, thân xác biết vui và mắt hiện ý cười… Ôi Thể thao, Thể thao là Sinh lực tràn đầy!... Ôi Thể thao, Thể thao là Tiến bộ từng ngày!
 
Độc giả ngày nay thường không mấy ấn tượng với bài thơ đầu tiên giành huy chương vàng Thế vận. Nhiều người nhận xét bài thơ này quá “hoa mỹ,” “làm bộ” hoặc “làm quá.” Nhưng theo hội đồng ban giám khảo năm 1912, Hohrod và Eschbach đã hoàn toàn chinh phục được họ.
 
Ý kiến của ban giám khảo năm 1912 viết rằng: “Đối với chúng tôi, ‘Ode to Sport’ rất xuất sắc, và bài thơ này thể hiện được tinh thần mà cuộc thi đang tìm kiếm.
 
Có lẽ chẳng có gì ngạc nhiên khi Hohrod và Eschbach có thể hiểu rõ tinh thần của cuộc thi đến như vậy, vì Hohrod và Eschbach thực ra chỉ là bút danh của người đã nghĩ ra toàn bộ ý tưởng về cuộc thi nghệ thuật trong Thế vận: tác giả của “Ode to Sport” không ai khác hơn là Pierre de Coubertin.
 
Các cuộc khai quật lớn đầu tiên tại Olympia, nơi tổ chức các kỳ Thế vận thời cổ đại, bắt đầu vào những năm 1870. Người ta đã phát hiện được nhiều tàn tích và hiện vật quý giá.
 
Khi còn nhỏ, Coubertin từng được chứng kiên những tàn tích của thành Rome cổ đại trong các chuyến viếng thăm cùng gia đình. Đến khi trở thành thiếu niên, ông theo học tại một trường dòng Jesuit. Nền giáo dục cổ điển càng làm tăng niềm đam mê của Coubertin đối với văn hóa Hy Lạp cổ đại.
 
Richard Stanton, tác giả của cuốn “The Forgotten Olympic Art Competitions,” từng giải thích điều này trong một bài phỏng vấn với tạp chí Smithsonian năm 2012: “Coubertin được nuôi nấng và giáo dục theo phong cách cổ điển, và rất ngưỡng mộ quan niệm của người Hy Lạp cổ về một Thế vận văn võ song toàn, không chỉ giỏi thể thao mà còn xuất sắc trong các lĩnh vực khác. Ông tin rằng Thế vận thời hiện đại cần bao gồm cả các khía cạnh nghệ thuật để tái hiện một cách toàn diện và đầy đủ tinh thần của Thế vận thời cổ đại.
 
Tuy nhiên, các nhà đồng tổ chức lại không mấy mặn mà với ý tưởng của vị Nam tước này. Sau vài lần thất bại, Coubertin thành lập Ủy ban Thế vận Quốc tế (International Olympic Committee, IOC) vào năm 1894, và kỳ Thế vận đầu tiên của thời hiện đại diễn ra tại Athens 2 năm sau đó. Nhưng Thế vận 1896 lại chỉ có các môn thi thể thao như ném đĩa, bơi lội, đấu kiếm và nhảy sào. Dù có thêm một số bộ môn mới vào các năm 1900 (thủy cầu và bắn cung) và 1904 (đấu quyền anh và quần vợt lacrosse), nhưng sự kết hợp mà Coubertin mong muốn vẫn chưa xảy ra.
 
Coubertin vẫn không ngừng theo đuổi mục tiêu của mình. Khi biết rằng Rome sẽ tổ chức Thế vận năm 1908, ông biết rằng cơ hội đã chín muồi. Ngày 5/8/1904, một bài báo của Coubertin có tiêu đề là “Olympiad Roman” được đăng trên trang nhất tờ Le Figaro của Pháp, trong đó viết rằng:
 
Đã đến lúc bước vào một giai đoạn mới, khôi phục lại vẻ đẹp ban đầu của Thế vận. Trong thời hoàng kim của Olympia… nghệ thuật và văn thơ luôn sánh bước cùng thể thao để làm nên các kỳ Thế vận vĩ đại và tuyệt vời. Tương lai cũng vậy… Hãy để La Mã hiện đại mang đến cho chúng ta một kỳ Thế vận điển hình, tái hiện những vinh quang xưa cổ: đưa nghệ thuật chung bước đồng hành với thể thao.
 
Coubertin tin rằng mối liên kết giữa thể thao và nghệ thuật không chết theo sự sụp đồ của Thế vận cổ đại Olympia, và đã đến lúc “khôi phục trọn vẹn lý tưởng này.” Sau ba kỳ Thế vận đầu tiên của thời hiện đại, việc “kết hợp thể chất và trí tuệ” là “khả thi và cần thiết.
 
Hai năm sau, IOC đã tổ chức một hội nghị để cân nhắc về “việc các bộ môn nghệ thuật, đặc biệt là văn thơ, có thể tham gia vào Thế vận như thế nào.” Bàn về văn thơ, họ thảo luận về “khả năng tổ chức các cuộc thi văn thơ trong Thế vận” và “cảm xúc đối với thể thao sẽ là nguồn cảm hứng sáng tác.
 
Coubertin đã có một bài phát biểu đầy nhiệt huyệt tại lễ khai mạc, nhấn mạnh sự tái kết hợp giữa thể chất và trí tuệ. Ông nói: “Nếu tôi nói rằng ngày nay ‘họ’ đang khao khát mãnh liệt được tái hôn’ thì là tôi nói dối. Sự kết hợp này đã từng rất thành công, nhưng sự xa cách lâu ngày đã khiến họ trở nên xa lạ và không mặn mà nữa. Xa mặt thì cách lòng.
 
Cuối cùng, các viên chức đồng ý thêm năm cuộc thi nghệ thuật vào Thế vận năm 1908, bao gồm văn thơ, hội họa, điêu khắc, âm nhạc và kiến trúc. Tất cả các tác phẩm tham gia các hạng mục này, được gọi chung là Năm môn Nghệ thuật phối hợp (Pentathlon of the Muses), cần phải được lấy cảm hứng từ thể thao, khôi phục được sự hòa hợp mà Coubertin đã hình dung.
 
Định mệnh trêu ngươi, ý người không bằng ý trời, những kế hoạch này đã bị một sự kiện lớn phá hỏng: Núi lửa Vesuvius thức giấc vào mùa xuân năm 1906. Khoảng 200 người đã thiệt mạng trong thảm họa này. Dù so ra thì con số không cao bằng hàng ngàn người chết vụ phun trào năm 79 sau Công Nguyên, nhưng sự kiện này đã làm gián đoạn kỳ Thế vận ở Rome, và các cuộc thi buộc phải dời đến London. Các cuộc thi đấu về nghệ thuật sau đó đã bị hoãn lại mãi đến Thế vận Stockholm năm 1912.
 
Số lượng người tham gia trong năm đầu tiên khá thất vọng, chỉ thưa thớt khoảng ba chục thí sinh tham gia hạng mục Năm môn Nghệ thuật phối hợp. Cuộc thi văn thơ chỉ nhận được không tới mười bài dự thi, trong đó có bài thơ của Coubertin viết dưới bút danh Hohrod và Eschbach. Nhưng tình hình đã khả quan hơn trong kỳ Thế vận năm 1924, và đến năm 1928, các cuộc thi nghệ thuật đã thu hút hơn 1,000 bài dự thi. Thời điểm đó, năm hạng mục nghệ thuật lại được phân chia thành các phân mục nhỏ hơn. Thí dụ, các thi sĩ có thể ghi danh thi đấu ở hai thể loại là “sử thi” hoặc “trữ tình.”
 
Tony Perrottet, tác giả của cuốn “The Naked Olympics: The True Story of the Ancient Games,” viết trên tờ New York Times vào năm 2012 rằng ngay từ đầu, hạng mục văn thơ (chủ yếu là thi ca) đã vấp phải nhiều tranh cãi. Thể thao không phải là chủ đề hấp dẫn trong mắt các nhà thơ nổi tiếng đầu thế kỷ 20, “khiến cho các cuộc thi trông giống như một tiết mục phụ, chất lượng bình dân.” Những tên tuổi lớn như William Butler Yeats của Ireland đã không tham gia các cuộc thi văn thơ trong Thế vận, mặc dù anh em của Yeats là Jack Butler Yeats, đã giành huy chương bạc trong bộ môn hội họa vào năm 1924. Robert Graves, một nhà thơ nổi tiếng của Anh, cũng tham gia kỳ Thế vận năm đó và thua cuộc, về sau đã viết trong một bức thư rằng cuộc thi là một “trò hề dở khóc dở cười.
 
Những thách thức mới đã xuất hiện trong Thế vận Berlin năm 1936. Adolf Hitler đã đồng ý tổ chức các kỳ Thế vận sau khi bộ trưởng tuyên truyền Joseph Goebbels nói rằng sự kiện này sẽ là cơ hội để chứng minh sự vượt trội của chủng tộc Aryan. Goebbels cũng đã giúp tổ chức các cuộc thi nghệ thuật trong kỳ Thế vận năm đó, và đã trao tổng cộng 9 huy chương vàng cho tất cả các hạng mục; 5 trong số đó thuộc về người Đức. Chỉ có một vận động viên Hoa Kỳ giành huy chương: Charles Downing Lay giành huy chương bạc ở phân mục “thiết kế quy hoạch đô thị,” thuộc hạng mục kiến trúc. Trong các phân mục thuộc về văn thơ, Đức giành huy chương vàng cho các tác phẩm thơ trữ tình, còn Phần Lan chiến thắng trong phần sử thi.
 
Việc lưu giữ hồ sơ và tác phẩm dự thi của các cuộc thi nghệ thuật tại Thế vận cũng không ổn định, và nhiều tác phẩm thắng giải đã biến mất một cách khó hiểu. Một số nhà phê bình cho rằng lý do có thể là chất lượng của các tác phẩm này không cao, nên chúng không được bảo tồn. Trong một bài đăng trên tờ Times năm 2012, Perrottet đã chỉ ra rằng các nhà sử học đã tìm kiếm trong vô vọng những tác phẩm lớn như “A Rider’s Instructions to His Lover,” của thi sĩ người Đức Rudolf Binding, tác phẩm đã giành huy chương bạc tại Thế vận Amsterdam năm 1928. Hay bài thơ của nhà vô địch bóng bầu dục Pháp Charles Gonnet ca ngợi các vận động viên Hy Lạp cổ đại, có tên là “Before the Gods of Olympia,” đã giành huy chương đồng tại Thế vận Paris năm 1924.
 
Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu về lịch sử Olympics đã cố gắng tìm kiếm bài thơ “Sword Songs” của Dorothy Margaret Stuart, giành huy chương bạc trong Thế vận năm 1924. Một thập niên trước, Perrottet tìm thấy bản sao của bài thơ tại Thư viện Công cộng New York. Bài thơ dài 37 trang “có chút lỗi thời” và “có chút hài hước.” Trong một phần của bài thơ, có cảnh diễn ra ở Scotland thời Trung Cổ, James IV đang quan sát hai chiến binh đấu kiếm với nhau như sau:
“Lách kiếm đâm sâu vào đối thủ
nhát vào khe hở nhát vào khớp
tẩn mạnh vào giáp tay, vào nón
phàm tất hai bên đều chịu đau.”
 
Năm môn thi Nghệ thuật phối hợp đã là một phần của Thế vận trong gần 40 năm, và đã trao tổng cộng khoảng 150 huy chương. Có những cột mốc đáng chú ý như: Robert Dover, vận động viên đồng tính đầu tiên tham gia Thế vận thời hiện đại vào năm 1988; và Ernst van Heerden, nhà thơ đồng tính người Nam Phi giành huy chương bạc trong kỳ Thế vận năm 1948. Tuy nhiên, sau kỳ Thế vận London năm 1948, các hạng mục nghệ thuật đã bị loại bỏ.
 
Quyết định của IOC về việc loại bỏ các hạng mục nghệ thuật khỏi Thế vận được cho là do “lý tưởng cao đẹp về tinh thần nghiệp dư thuần túy thời Corinthian mà Thế vận đã cam kết sẽ gìn giữ.” Theo đó, chỉ những người không kiếm sống từ nghệ thuật mới được tham gia các cuộc thi nghệ thuật trong Thế vận. Việc phân biệt giữa nghệ sĩ chuyên nghiệp và nghiệp dư rất khó khăn, và chất lượng của các tác phẩm dự thi đã giảm xuống mức trung bình.
 
Avery Brundage, chủ tịch IOC từ năm 1952, đã phản đối mạnh mẽ các cuộc thi nghệ thuật trong Thế vận. Richard Stanton, tác giả của cuốn “The Forgotten Olympic Art Competitions,” nghi ngờ sự phản đối của Brundage có thể liên quan đến thất bại ê chề của cá nhân ông này, vì ông này đã từng hai lần tham gia các cuộc thi văn thơ trong Thế vận mà không đạt thành tích cao, chỉ được một giải khuyến khích.
 
Ngày nay, các huy chương về nghệ thuật không còn được liệt kê trong các hồ sơ chính thức của Thế vận. Và dù đôi khi vẫn có những lời kêu gọi đưa các cuộc thi nghệ thuật trở lại với Thế vận, nhưng không thành công.
 
Coubertin qua đời vào năm 1937, và không nhìn thấy sự lụi tàn của các bộ môn nghệ thuật tại Thế vận. Nhưng trong cuốn hồi ký về Olympics xuất bản năm 1931, ông có bàn về lý do tại sao các bộ môn nghệ thuật trong Thế vận lại khó có thể thành công
 
Nam tước viết: “Nguyên nhân chính có thể được tóm tắt mấy từ: nỗi sợ cổ điển.” Ông tin rằng nỗi sợ này tràn ngập mọi hạng mục. Lấy thí dụ về văn thơ: thi sĩ “không thể mô tả chính xác niềm hân hoan của nỗ lực thể thao vì chính bản thân họ không quen thuộc với điều đó.” Còn trong hội họa, “các cảnh về thể thao đòi hỏi nhiều đường nét hơn màu sắc, điều này không hợp với khuynh hướng nghệ thuật đương thời.” Vậy còn âm nhạc thì sao? Coubertin viết: “Công chúng cũng không còn thích thú với các bản cantata ngoài trời.
 
Nguyên Hòa biên dịch
 
Nguồn: “Poetry Was an Official Olympic Event for Nearly 40 Years. What Happened?” được đăng trên trang Smithsonianmag.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thuế quan — thứ từng vắng bóng trên mặt báo suốt nhiều thập niên — nay trở lại trung tâm chính sách kinh tế Hoa Kỳ, trong lúc Tối Cao Pháp Viện đang xét tính hợp hiến của các mức thuế toàn cầu do Tổng thống Donald Trump ban hành. Bài viết dưới đây, theo phân tích của Kent Jones, giáo sư kinh tế danh dự Đại học Babson, đăng trên The Conversation ngày 11 tháng 12 năm 2025, nhằm giải thích cặn kẽ thuế quan là gì, ai thực sự gánh chịu, và vì sao vấn đề này đang tác động trực tiếp đến túi tiền và tương lai kinh tế nước Mỹ. Thuế quan, nói gọn, là thuế đánh lên hàng hóa nhập cảng. Khi một công ty Hoa Kỳ nhập hàng từ nước ngoài, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ sẽ gửi hóa đơn thuế; doanh nghiệp phải nộp đủ thì hàng mới được thông quan. Trên giấy tờ, người trả thuế là nhà nhập cảng. Nhưng trên thực tế, phần lớn chi phí ấy được chuyển thẳng sang người tiêu dùng qua giá bán cao hơn — từ thực phẩm, xe cộ cho đến quà tặng cuối năm.
Vào những ngày cuối tháng Tám của năm 2025, tôi cùng hai đồng nghiệp đã quyết định từ bỏ chức vụ tại Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Chúng tôi ra đi vì không thể tiếp tục im lặng khi chứng kiến tính liêm chính khoa học ngày một xói mòn, còn cơ sở hạ tầng y tế công cộng của quốc gia cứ dần rệu rã dưới sự lãnh đạo của Robert F. Kennedy Jr., Bộ trưởng Bộ Y tế và Nhân sinh (HHS). Khi đó, chúng tôi đã khẩn thiết kêu gọi Quốc Hội, các tổ chức chuyên ngành và các bên liên quan trong lĩnh vực y tế công cộng hãy can thiệp trước khi xảy ra những thiệt hại không thể cứu vãn. Tôi rời đi với niềm tin mọi thứ rồi sẽ được chấn chỉnh.
Khi nhìn bản đồ thế giới và duyệt xét lịch sử hình thành, chúng ta nhận thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa Canada và Úc Đại Lợi.
Người Việt miền Nam từng trải qua một bài học cay đắng: sau 1975, những lời nói về “thống nhất” và “hàn gắn” không bao giờ đi cùng sự nhìn nhận. Không một lời chính thức nào nhắc đến các trại cải tạo, những cuộc tước đoạt, hay những đời sống bị đảo lộn dưới tay những người nhân danh chiến thắng. Không có sự thật, hòa giải chỉ là chiếc khẩu hiệu rỗng. Câu chuyện nước Mỹ hôm nay, khi chính quyền muốn làm mờ các chứng tích về chế độ nô lệ, cho thấy một điều quen thuộc: không quốc gia nào trưởng thành bằng cách giấu đi phần tối. Sự thật không tự biến mất chỉ vì người ta muốn quên.
Hai mươi năm trước, Thống đốc Jeb Bush ký đạo luật “stand your ground” (đứng vững tại chỗ), được giới ủng hộ xem là một biện pháp chống tội phạm dựa trên “lý lẽ thường tình”. Lời hứa khi ấy: bảo vệ người dân tuân thủ pháp luật khi họ dùng vũ lực để tự vệ. Sau vụ George Zimmerman được tha trong cái chết của Trayvon Martin, đồng bảo trợ dự luật, dân biểu Dennis Baxley, vẫn bảo rằng “trao quyền” cho người dân sẽ giúp chặn bạo lực.
“Di sản, còn có thể mang hình thức phi vật thể của lối nghĩ, lối sống, lối hành động, mà con người miền Nam khi xưa đã được trau dồi, hun đúc qua tinh thần của thể chế, của một nền dân chủ hiến định. Chính con người, chính cộng đồng xã hội mới là trung tâm và cũng là cội nguồn lẫn mục đích của mọi bản hiến pháp.” – Hải Sa, “Ngót 60 năm từ một khế ước nhân quyền dang dở,” trang 56 Cùng với tin tạp chí Luật Khoa vừa được đề cử giải thưởng Tự Do Báo Chí năm 2025 của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, ban chủ trương trong một thư tới độc giả vào cuối tháng 10 đồng thời thông báo việc phát hành ấn bản đặc biệt với chủ đề “70 Năm Việt Nam Cộng Hòa – Chân Dung & Di Sản” gồm 86 trang, với 14 bài vẽ lại hành trình từ ra đời tới bị bức tử của nền dân chủ duy nhất của Việt Nam và di sản của thể chế yểu mệnh này để lại. Bài này nhằm điểm qua nội dung của ấn bản đặc biệt này, và sẽ chú trọng vào một bài đã gợi nơi người viết một suy tư sâu sắc.
Một nhóm sử gia, thủ thư và tình nguyện viên đang gấp rút chạy đua với thời gian – và với chính quyền Trump – để giữ lại những mảnh ký ức của nước Mỹ.Từ hình ảnh người nô lệ bị đánh đập, các trại giam người Mỹ gốc Nhật trong Thế Chiến II, đến những bảng chỉ dẫn về biến đổi khí hậu ở công viên quốc gia, tất cả đều có thể sớm biến mất khỏi tầm mắt công chúng. Trong vài tháng gần đây, hơn một ngàn sáu trăm người – giáo sư, sinh viên, nhà khoa học, thủ thư – đã âm thầm chụp lại từng góc trưng bày, từng bảng giải thích, để lập ra một kho lưu trữ riêng tư. Họ gọi đó là “bản ghi của công dân” – một bộ sưu tập độc lập nhằm bảo tồn những gì đang tồn tại, trước khi bị xoá bỏ bởi lệnh mới của chính quyền.
Hai trăm mười một năm trước, mùa hè năm 1814, quân Anh kéo vào Washington. Trước khi phóng hỏa Bạch Ốc, họ ngồi xuống dùng bữa tại bàn tiệc đã dọn sẵn cho Tổng thống James Madison. Khi bữa ăn kết thúc, lính Anh đốt màn, đốt giường, và tòa nhà bốc cháy suốt đêm. Sáng hôm sau, cơn mưa lớn chỉ còn rửa trôi phần tro tàn của nơi từng là biểu tượng cho nền cộng hòa non trẻ. Tuần này, phần Cánh Đông của Bạch Ốc bị phá sập. Không phải bởi ngoại bang, mà bởi chính quyền tại vị. Và lần này, không ai được báo trước. Người Mỹ chỉ biết chuyện qua những bức ảnh máy xúc cày nát nền nhà, cùng lời xác nhận ngắn ngủi từ các viên chức trong chính phủ.
Hai trăm năm rưỡi sau ngày dựng cờ độc lập, nước Mỹ vẫn chưa thoát khỏi chiếc bóng của bạo lực. Mỗi khi một viên đạn nổ, người ta lại nói: “Đây không phải là nước Mỹ.” Nhưng chính câu nói ấy lại là cách người Mỹ tránh nhìn thẳng vào chính mình. Bài viết của giáo sư Maurizio Valsania (Đại học Torino), đăng trên The Conversation ngày 12 tháng 9, 2025, nhắc lại lịch sử mà nhiều người muốn quên: từ nhựa đường và lông gà đến súng ngắn buổi bình minh — một mạch dài nối liền hai thế kỷ, nơi tự do và bạo lực chảy cùng dòng máu.
Một cuộc thăm dò dư luận của AP-NORC thực hiện vào tháng 9 & 10 cho thấy hầu hết dân Mỹ coi việc chính phủ đóng cửa hiện tại là một vấn đề nghiêm trọng và đổ lỗi cho cả hai Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ và cả Tổng Thống Trump với những tỷ lệ gần như ngang nhau. Cuộc thăm dò cũng cho thấy người Mỹ lo lắng về kinh tế, lạm phát và bảo đảm việc làm. Họ đang giảm những chi tiêu không thiết yếu như quần áo và nhiên liệu. Đa số cho rằng nền kinh tế yếu kém. Chi phí thực phẩm, nhà ở và chăm sóc sức khỏe được coi là những nguồn chính gây khó khăn tài chính.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.