
Ngày nay, ở Hoa Kỳ, chuyện cấm sách đang trở nên rầm rộ và gây tranh cãi gay gắt hơn bao giờ hết. (Nguồn: Hình của Andrei Metelev trên pixabay.com)
Nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng, kể cả của những tác giả lừng danh như Mark Twain, Harriet Beecher Stowe, và William Shakespeare, đều đã từng bị cấm trong các trường học ở Hoa Kỳ vì bị các nhà hữu trách cho là có nội dung gây tranh cãi, tục tĩu, khiêu dâm hoặc không phù hợp.
Một trong những cái tên đáng chú ý là Judy Blume, nữ tác giả của cuốn sách “Are You There God? It's Me, Margaret” (Chúa ơi Người có đó không? Là con, Margaret) năm 1970, từng bị phản đối và bị cấm ở nhiều trường học trên toàn Hoa Kỳ vì nói về tuổi dậy thì của phái nữ và các vấn đề tôn giáo.
Ngay cả tác phẩm nổi tiếng “Nhật ký của Anne Frank” cũng từng bị cấm, nhưng không phải vì viết về cuộc sống khi gia đình cô bé người Do Thái Anne Frank trốn chạy khỏi sự truy sát của Đức Quốc xã, mà là vì những đoạn miêu tả sự thay đổi cơ thể của thiếu nữ khi đến tuổi dậy thì.
Việc cấm sách hầu như chẳng bao giờ vắng bóng trên các phương tiện truyền thông. Theo Hội Thư viện Hoa Kỳ (American Library Association, ALA), số lượng yêu cầu cấm sách trong năm 2023 nhiều kỷ lục, tăng 65% so với năm trước, mà năm trước vốn cũng đã đạt mức kỷ lục. ALA cũng chỉ ra rằng “47% các tác phẩm bị nhắm mục tiêu duyệt xét là từ những tác giả thuộc cộng đồng LGBTQIA+ và BIPOC.”
Mặc dù việc duyệt xét đã tồn tại từ rất lâu, nhưng mục tiêu của việc cấm sách thì liên tục thay đổi theo thời gian.
Từ thời còn là thuộc địa của Anh: cấm vì tôn giáo
Ngay từ khi Hoa Kỳ còn là thuộc địa của Anh, các nhà lãnh đạo tôn giáo đã là tiên phong trong việc cấm sách. Năm 1650, William Pynchon ở Massachusetts Bay đã xuất bản cuốn “The Meritorious Price of Our Redemption,” có nội dung cho rằng bất kỳ ai vâng lời Chúa và sống đúng với lời dạy của Chúa đều có thể được lên thiên đàng. Quan điểm này đi ngược lại với niềm tin của Thanh giáo (Puritan) thời đó, vốn cho rằng chỉ một số người đặc biệt đã được Chúa chọn sẵn.
Cộng đồng Thanh giáo ở Massachusetts phẫn nộ. Pynchon bị coi là dị giáo, và cuốn sách này bị đốt và cấm. Đây cũng là sự việc cấm sách đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Hoa Kỳ. Ngày nay, chỉ còn lại bốn bản sao của cuốn sách này.
Thời nô lệ và Nội chiến
Trong nửa đầu thế kỷ 19 vấn đề nô lệ là một trong những chủ đề gây tranh cãi gay gắt nhất tại Hoa Kỳ, đặc biệt ở miền Nam. Đến những năm 1850, nhiều bang miền Nam đã cấm hoàn toàn việc bày tỏ quan điểm chống chế độ nô lệ. Tuy nhiên, Harriet Beecher Stowe đã công khai thách thức điều này khi xuất bản cuốn “Túp lều chú Tôm” vào năm 1851, nhằm phơi bày tội ác của chế độ nô lệ.
Theo nhà sử học Claire Parfait, cuốn sách này đã bị các chủ nô ở miền Nam cấm và công khai lôi ra đốt cùng với nhiều tác phẩm khác. Ở Maryland, mục sư da đen Sam Green thậm chí còn bị kết án 10 năm tù chỉ vì có một bản sao của cuốn sách này.
Khi Nội chiến nổ ra vào những năm 1860, các bang miền Nam tiếp tục cấm các tài loại sách vở ủng hộ phong trào bãi nô. Trong khi đó, chính quyền Liên bang thì cấm các tác phẩm ủng hộ phe miền Nam, chẳng hạn như cuốn tiểu sử về tướng Stonewall Jackson do John Esten Cook viết.
Cuộc chiến chống sự đồi bại
Năm 1873, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Comstock, cấm các loại sách được cho là “khiêu dâm” và “đồi bại, phóng đãng.” Được ủng bộ bởi nhà hoạt động xã hội Anthony Comstock, đạo luật này cấm mọi hình thức sở hữu hoặc truyền bá các thông tin, kiến thức về tình dục và ngừa thai – thời đó thường được gửi qua thư tín.
Điều này ảnh hưởng lớn đến các tài liệu như Family Limitation của Margaret Sanger, vốn giúp phổ biến thông tin về các biện pháp tránh thai vào thời điểm mà bàn chuyện về tình dục là điều cấm kỵ. Cũng vào thời gian này, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và các bà mẹ rất cao. Đạo luật Comstock có hiệu lực cho đến năm 1936.
Tại Boston, nơi châm ngòi vụ đốt sách đầu tiên ở Hoa Kỳ, các nhà hữu trách liên tục chống lại mọi thứ mà họ coi là “không đứng đắn.” Từ Leaves of Grass của Walt Whitman đến A Farewell to Arms của Ernest Hemingway đều bị khảo xét. Hội New England Watch and Ward, bao gồm nhiều người thuộc tầng lớp thượng lưu của Boston, kiện các nhà sách, gây áp lực lên cảnh sát và tòa án để truy tố tác giả vì những nội dung bị cho là khiêu dâm. Họ thậm chí còn ép Thư viện Công cộng Boston phải đưa hết các cuốn sách gây tranh cãi vào khóa trong một căn phòng đặc biệt được gọi là Inferno.
Đến những năm 1920, Boston đã “khét tiếng” về việc cấm sách, đến mức có nhiều tác giả cố tình chọn in sách của mình ở đây, vì tin rằng sách bị cấm sẽ giúp thu hút sự chú ý của dư luận và dễ quảng bá đến các khu vực khác trên toàn quốc.
Trường học và thư viện: những chiến trường mới
Bước sang thế kỷ 20, mặc dù xã hội đã dần cởi mở hơn, nhưng các thư viện trường học vẫn là nơi diễn ra các cuộc tranh cãi gay gắt về việc trẻ em nên được cho tiếp xúc với những loại thông tin nào. Trong xã hội Hoa Kỳ tiến bộ và hiện đại như ngày nay, phụ huynh và các nhà giáo dục phải đối mặt với vô vàn ý kiến trái chiều khi quyết định về những loại tác phẩm văn chương thực tế và tưởng tượng (fiction, nonfiction) nào sẽ được phép có mặt trong thư viện.
Các lý do cấm sách rất đa dạng: một số sách đi ngược lại những quan điểm truyền thống về lịch sử hoặc các chuẩn mực xã hội lâu đời. Những cuốn khác lại bị cho là không phù hợp do sử dụng từ ngữ hoặc có nội dung liên quan đến tình dục và chính trị.
Miền Nam thời Jim Crow là nơi diễn ra nhiều vụ khảo xét và cấm sách nhất. Hội United Daughters of the Confederacy đã có nhiều nỗ lực thành công để cấm các loại sách giáo khoa không thể hiện sự đồng cảm với thất bại của miền Nam trong Nội chiến. Ngoài ra, có những nỗ lực cấm sách khác, như cuốn The Rabbits' Wedding (1954) của Garth Williams, kể về câu chuyện thỏ trắng kết hôn với thỏ đen, một số người cho rằng đây là khuyến khích các cuộc hôn nhân giữa các chủng tộc, điều bị cấm kỵ ở miền Nam thời bấy giờ.
Các nỗ lực cấm này thường khiến các quản thủ thư viện cảm thấy bị đe dọa, sợ sệt, không dám bổ sung các tài liệu có thể bị coi là gây tranh cãi. Tuy nhiên, những năm 1950, một số quản thủ thư viện đã bắt đầu đứng lên và tổ chức chống lại làn sóng khảo xét trong thời kỳ McCarthy, đặc biệt là để bảo vệ các tác phẩm như Huckleberry Finn, The Catcher in the Rye, và To Kill a Mockingbird.
Quyền tự do đọc và tự do ngôn luận
Năm 1969, TCPV đã công nhận quyền tự do biểu đạt của học sinh trong vụ Tinker v. Des Moines. Trong vụ kiện này, một nhóm học sinh đã đeo băng tay đen khi đến trường để phản đối chiến tranh Việt Nam. Với tỷ số biểu quyết 7-2, tòa án phán quyết rằng “không giáo viên hay học sinh nào phải từ bỏ quyền tự do ngôn luận của mình khi bước vào cổng trường.”
Năm 1982, TCPV lại tiếp tục xem xét các vấn đề liên quan đến sách vở học đường trong vụ kiện Island Trees Union Free School District v. Pico. Trong vụ này, một nhóm học sinh đã kiện hội đồng trường ở New York vì đã loại bỏ các cuốn sách của các tác giả nổi tiếng như Kurt Vonnegut và Langston Hughes. Hội đồng trường cho rằng những cuốn sách này mang nội dung “chống Hoa Kỳ, chống Kitô giáo, chống Do Thái và chỉ toàn rác rưởi.” Tòa án đã phán quyết rằng “hội đồng trường không thể cấm sách chỉ vì họ không thích các ý tưởng trong những cuốn sách đó.”
Tuy nhiên, vào đầu những năm 1980, nhiều quản thủ thư viện đã phải đối mặt với quá nhiều kiện tụng liên quan đến sách, đến nỗi họ quyết định tổ chức Tuần lễ Sách Cấm (Banned Book Week), một sự kiện thường niên nhằm mục tiêu nâng cao nhận thức về quyền tự do đọc.
Duyệt xét thời hiện đại
Dù có tiến bộ trong việc bảo vệ quyền tự do đọc, các nỗ lực cấm sách vẫn chẳng giảm bớt. Theo PEN America, trong khoảng thời gian từ tháng 7/2021 đến tháng 3/2022, có tới 1,586 lệnh cấm sách tại 86 khu học chánh ở 26 tiểu bang, ảnh hưởng đến hơn 2 triệu học sinh. Các loại sách liên quan đến LGBTQ+ và các vấn đề về chủng tộc, tình dục thường là mục tiêu chính. Tiểu bang Texas dẫn đầu với 713 lệnh cấm, gần gấp đôi so với các tiểu bang khác.
Theo Hội Thư viện Hoa Kỳ, cuốn sách bị đưa vào tầm ngắm nhiều nhất trong năm 2023 là “Gender Queer” của Maia Kobabe, một cuốn hồi ký về việc trở thành người mang phái tính thứ ba (nonbinary). Các tác phẩm khác trong danh sách bị cấm bao gồm “The Bluest Eye” của Toni Morrison và “The Perks of Being a Wallflower” của Stephen Chbosky.
Pat Scales, một quản thủ thư viện dày dặn kinh nghiệm ở South Carolina và là người ủng hộ quyền tự do ngôn luận, nhấn mạnh rằng việc cấm sách không chỉ đơn thuần là việc loại bỏ những cuốn sách ra khỏi kệ, mà còn là để sách ở những nơi khó tìm khó lấy, để chúng bị hư hỏng, hoặc gắn nhãn giới hạn độ tuổi được đọc. Trong cuốn “Scales on Censorship” xuất bản năm 2007, ông viết: “Duyệt xét thực chất là kiểm soát. Còn tự do tri thức là sự tôn trọng.”
Cung Mi biên dịch
Nguồn: “The history of book bans—and their changing targets—in the U.S.” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.
Gửi ý kiến của bạn