Hôm nay,  

Mát

11/02/200600:00:00(Xem: 7041)
- Đồ mát dây, dở hơi, cám hấp, khùng…, đó là những từ để chỉ một người cái đầu không bình thường, hết còn minh mẫn. Mát, là từ tiếng Pháp, masse, bị mát dây tức là mạch điện bị chạm. Đối với cái đầu, nguy hiểm, nhất, đáng sợ nhất, là lúc nó biết rằng những dây nối đã bị lỏng, theo Roger Rosenblatt, trong bài tiểu luận trên tờ Time, số đề ngày 3 tháng Chín, 2001.

Tác giả nhắc lại, trước đó vài tuần, trên tờ The New York Times, ngay trang nhất, là bức hình tác giả, và sử gia William Manchester. Những nét "quằn quại" trên khuôn mặt cho thấy, có lẽ ông đang ở vào những giây phút sáng tạo dữ dằn nhất [chắc giống như người đàn bà khi vượt cạn!] nhưng câu chuyện kèm theo bức hình, nói ngược lại.

Đây là câu chuyện của một con người hết còn sáng tạo, nói nôm na, hết viết được nữa. Ở vào tuổi 79, liệt một bên chân do những cú strokes sau khi bà vợ mất vào năm 1998, ông nhận ra không thể hoàn tất tập ba của cuốn Con Sư Tử Cuối Cùng, viết về cuộc đời Winston Churchill. Độc giả đã chờ đón cuốn sách từ nhiều năm nay. Ông cho biết, "Tôi không thể sắp xếp mọi chuyện được nữa" (I can’t put things together). "Tôi không thể nối chúng lại" (I can’t make the connections).

Trong tất cả những nỗi sợ mà một nhà văn kinh nghiệm – và bởi vì nhà văn có nghĩa là cuộc đời của mình bao gồm từ 96% cho đến 100%, chỉ những sợ cùng lo, hay là niềm xao xuyến sinh tồn, angoisse, chữ thời trào lưu hiện sinh, – cái nỗi sợ không nối chúng lại với nhau được nữa, là khủng khiếp nhất. Cái đầu của nhà văn, khi nó còn chịu chơi (còn làm việc được), nó giống như chú thỏ của Alice, kéo người đẹp đi tới mọi hang cùng ngõ hẻm, với một lời hứa hẹn: Những nơi chốn bí ẩn và hấp dẫn này, ngay cả trí tưởng tượng của con người, cũng chưa từng biết tới! Niềm xao xuyến, nỗi lo âu của con thỏ: nó phải khám phá, và cùng lúc, phô bầy ra, cho người đẹp thấy, những thiên đường bí ẩn và hấp dẫn đó. Đây là một trong những "trách nhiệm" lớn lao nhất của nhà văn, theo người viết, làm sao cho độc giả cả thấy: đây là bí ẩn, đây là hấp dẫn, và đây là niềm vui: văn chương.

Hãy lấy một câu văn, của nhà sử học Manchester đã dẫn ở trên, khi viết về tang lễ của Churchill: "Khi chiếc hòm trên phủ quốc kỳ của ông đi qua thành phố cổ, cùng với đội nghi lễ hải quân, cùng với những cư dân của thành phố London, đầu trần, run rẩy trong giá lạnh; họ tưởng niệm, không phải chỉ Churchill, không phải chỉ những gì mà ông ta đã làm được cho nước Anh, ông ta là gì với họ; nhưng họ còn tưởng niệm, những gì họ có được, chẳng còn nữa, và chẳng bao giờ lại được như xưa."

Rõ ràng là, khi bắt đầu câu văn, Manchester chẳng thể nào biết được, nó sẽ dẫn ông ta tới đâu. Nó sẽ chấm dứt như thế nào. Có thể ông mơ hồ cảm thấy, rằng sẽ hấp dẫn lắm đấy, khi tới được nơi chốn bí ẩn: trạm cuối của câu văn, của cuộc hành trình. Nhưng… tuyệt vời thay, khi câu văn chấm dứt, là một câu văn khác bắt đầu, và chúng ta – người viết, người đọc – sẽ cứ thế mà chạy theo, không những một con thỏ, mà có thể hai, có thể nhiều hơn nữa, cùng một lúc!

***

Người viết cho rằng, cái yếu tố quan trọng nhất, qua kinh nghiệm một câu văn ở trên là yếu tố thời gian: cùng một lúc. Thời gian mới là yếu tố quyết định của một câu văn.

Bạn hãy thử đọc câu văn sau đây: "Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt, thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết, theo từng cơn hấp hối của thành phố, cùng với tiếng hoả tiễn réo ngang đầu." (Nguyễn Quốc Trụ: Cõi Khác, trong Lần Cuối, Sài Gòn, nhà xb Văn Mới, 1998)

Thời gian ở đây: Thành phố Sài Gòn, những ngày Mậu Thân.

Nói rõ hơn, chỉ có ai đã từng sống những giây phút đó, mới bắt được nhịp thở của câu văn, và cũng là của thành phố, trong những cơn hấp hối của nó.

Nói một cách khác, không phải NQT, mà là Sài Gòn, những ngày Mậu Thân, mới là chủ nhân thực sự của câu văn trên.

Cũng vậy, câu văn của Manchester, là của thành phố Luân Đôn, những ngày ăn bom bay V1, V2… của Đức quốc xã.

***

Những câu văn như của Manchester ôm lấy bạo động, hay là dấu ấn của thời gian, của lịch sử – lịch sử như là nơi chốn tự nhiên của bạo động, le lieu naturel de la violence - rồi biến nó thành niềm u hoài… liệu chúng ta có thể nói như vậy, khi phải giải thích những dòng chữ "hiền hoà" như trên"

Joseph Brodsky lại đưa ra một lời giải thích khác, khi được hỏi, tại sao thiếu vắng cái gọi là "cảm xúc nói ra lời hung bạo" (biểu hiện bạo động của cảm xúc, violent expression of emotion) trong thơ của những nghệ sĩ phổ cập, đại chúng, như Pushkin, Mozart, thí dụ vậy,"Không có biểu hiện hung bạo của cảm xúc ở Mozart, bởi vì ông vượt lên trên cõi đó."

-Nhưng như vậy là thi sĩ muốn nhắm tới một thứ thơ "trung tính", vượt lên trên mọi cảm xúc""

Nhà thơ trả lời, đây là vấn đề thời gian. "Cội nguồn của âm điệu [của thơ], là thời gian. Bạn chắc còn nhớ, tôi đã từng nói, bất cứ một bài thơ đều là thời gian được sắp xếp lại"… "Thời gian nói với từng cá nhân chúng ta bằng những giọng điệu thay đổi. Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó…"

(Trích "Trò chuyện với Joseph Brodsky", tác giả Solomon Volkov, nhà xuất bản Free Press, 1998, đoạn Brodsky bàn về thơ của nữ thi sĩ Nga, Marina Tsvetaeva).

Có thể, một độc giả không ở Sài Gòn, trong những đêm thành phố run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích bất thần trút xuống, vẫn có thể cảm nhận được niềm lo âu xao xuyến, nỗi sợ bám riết vào da thịt… nhưng chắc chắn là qua một kinh nghiệm khác, về bạo động và lịch sử….

NQT

tanvien.net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong hơn hai thế kỷ qua, Hiến Pháp Hoa Kỳ đã “trưởng thành” cùng đất nước thông qua các tu chính án. Những sửa đổi mang tính lịch sử như Tu Chính Án 13 (xóa bỏ chế độ nô lệ) hay Tu Chính Án 19 (mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ) là minh chứng rõ ràng cho tinh thần ấy: Hiến Pháp không phải là những điều bất biến, mà là một công trình luôn phát triển cùng thời đại.
Năm 1978, Hồng y Karol Józef Wojtyla, Tổng Giám mục Kraków của Ba Lan, được bầu làm giáo hoàng (John Paul II, Gioan Phaolô II). Năm 1980, thi sĩ Czesław Miłosz, giáo sư gốc Ba Lan tại Đại học Berkeley, được trao giải Nobel Văn chương, là người đầu tiên của trường nhận giải Nobel không phải trong lãnh vực khoa học và ông có những quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Từ đó tôi chú ý đến đất nước Ba Lan nhiều hơn, nhất là chuyến trở về quê hương lần đầu tiên của Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1979.
Ngày 11 tháng 9 năm 2001, vợ chồng sắp bay sang Ý dự đám cưới con gái vào ngày 12. Sáng ấy, ông vẫn dậy 4 giờ rưỡi, tắm, hát điệu music-hall, mặc bộ pin-stripe xanh đậm – ông bắt nhân viên an ninh mang áo cà vạt mỗi ngày; nhiều người khó, ông tự móc tiền mua cho. 8 giờ 15 như lệ, gọi cho Susan. Nửa giờ sau, Susan đang nói chuyện với con thì đầu dây khác reo: “Mở tivi lên!” Tháp phía bắc bốc khói. Bà gọi văn phòng chồng; đồng nghiệp bảo: “Rick đang ngoài hành lang, cầm loa, đưa mọi người ra.” Ở Florida, Dan Hill xem tivi thì điện thoại reo: Rick gọi từ di động. “Tôi đang sơ tán.” Hill nghe ông dùng loa, giọng bình tĩnh, rồi bật hát bài “Men of Harlech”: “Đứng vững, người Cornwall ơi… đừng bao giờ chịu khuất.” Rick nói thêm: Ban quản trị toà nhà bảo ở yên. “Tôi bảo hắn cút đi,” Rick nói. “Những tầng trên điểm trúng sẽ sập, kéo cả nhà xuống. Tôi đưa người của tôi ra.” Vài phút sau, máy bay thứ hai ngoặt trái lao vào tháp nam. Susan bấm gọi; không ai bắt máy...
Về mặt pháp lý và hình sự ở châu Âu, hiện nay không có một Tòa án Hình sự duy nhất nào có thẩm quyền chung cho toàn châu Âu như kiểu “Tòa án Tối cao Hình sự châu Âu”. Tuy nhiên, có một số cơ quan và tòa án có thẩm quyền trong một số lĩnh vực nhất định có liên quan đến hình sự chung cho châu Âu. European Union Agency for Criminal Justice Cooperation, EUROJUST không phải là tòa án mà là cơ quan hợp tác tư pháp hình sự của Liên minh châu Âu, có chức năng hỗ trợ và điều phối hợp tác điều tra và truy tố hình sự xuyên biên giới giữa các quốc gia thành viên. Các tội phạm xuyên quốc gia là khủng bố, buôn ma túy, rửa tiền, tội phạm mạng... Cơ quan này có trụ sở đặt tại The Hague, Hà Lan.
Năm 1969 ông Hồ qua đời, đúng vào Ngày Quốc khánh 2/9 nên lãnh đạo Hà Nội đã “cho ông sống thêm một ngày” vì thế trên các văn kiện của Đảng Lao động lúc bấy giờ, ông Hồ được xem như chính thức sinh ngày 19/5/1890, mất ngày 3/9/1969, hưởng thọ 79 tuổi.
LTS: Tuần qua, tòa soạn nhận được bản tin có tựa đề: Picnic “Mừng” Cách Mạng Tháng Tám Ngay Thủ Đô Tị Nạn của Tổ Chức VietRise. Bản tin viết: Ngày 16 tháng 8, VietRise đã tổ chức một buổi picnic mùa hè, với chủ đề về Cách Mạng Tháng Tám (CMT8) và Hồ Chí Minh (HCM), nhấn mạnh ‘thành tích’ giành lại chủ quyền dân tộc cho Việt Nam và phong trào này đã ‘thành công’ ra sao. Cùng thời điển, Nguyễn Phan Quế Mai, ngòi bút Việt nổi tiếng đã đăng trên FB (18/8): “Tập thơ mới của tôi, Màu Hòa Bình, sẽ được Black Ocean Publishing xuất bản tại Hoa Kỳ đúng vào ngày 2 tháng 9 (ngày Quốc khánh Việt Nam).” Những sự việc nối tiếp ấy đã dấy lên nhiều thư từ bài viết phản biện, khơi lại ý nghĩa của 19/8 và ngày 2/9 đối với cộng đồng tị nạn. Bài viết dưới đây của tg Minh Phương là một biên soạn công phu, góp phần vào cuộc đối thoại này.
Trong thời gian qua, dư luận chú ý nhiều đến cuộc đối đầu giữa Tòa Bạch Ốc và các đại học danh tiếng như Columbia hay Harvard. Tuy nhiên, cuộc tranh chấp này đã vô tình che lấp vấn đề sâu rộng và nghiêm trọng hơn: chính quyền Trump cùng nhiều tiểu bang đang tiến hành một chiến dịch nhắm vào hệ thống giáo dục công lập K-12
Có lẽ nếu lịch sử, nói chung, có bất kỳ một huyền thoại thuần khiết nào, thì sự vươn mình trỗi dậy của người Mỹ gốc Phi để bước ra khỏi địa ngục, chính là sự thuần khiết nhất. Bởi vì, huyền thoại của họ được viết từ chính nhận thức của lương tri và sức mạnh của trí tuệ. Huyền thoại của họ là ánh sáng phát ra từ bóng tối.
Trong thời đại của những dòng tin tức u ám và bầu không khí chính trị đầy bất an, hành động tập thể và tổ chức vận động ở cấp cơ sở vẫn lặng lẽ tỏa sáng như ánh lửa ấm giữa đêm dài, không chỉ giúp xua tan tuyệt vọng mà còn khơi lên hy vọng thay đổi và tiến bộ. Chính ánh lửa đó đã thôi thúc những người bất đồng với Tổng thống Donald Trump xuống đường. Các cuộc biểu tình trong suốt mùa xuân và mùa hè đã cho thấy sự phản đối mạnh mẽ (không chỉ riêng ở Hoa Kỳ mà còn lan ra toàn thế giới) đối với nghị trình của chính quyền Trump, đặc biệt là các nỗ lực nhằm thâu tóm quyền lực và phá hoại các cơ quan và dịch vụ công trọng yếu. Hậu quả từ các chính sách ấy chủ yếu đè nặng lên các cộng đồng vốn đã chịu nhiều thiệt thòi: di dân, người nghèo, người da màu, phụ nữ và cộng đồng LGBTQIA+.
Khi ngày kỷ niệm 250 năm Tuyên Dương Độc Lập đang đến gần, Hoa Kỳ đứng trước một câu hỏi quan trọng: Liệu một trong những giá trị cốt lõi nhất của bản Tuyên Dương – rằng chính phủ phải hoạt động minh bạch, có trách nhiệm trước nhân dân và tuân thủ pháp luật – có còn được giữ vững? Trước khi bản Tuyên Dương Độc Lập ra đời, các nhà lập quốc đã lên án việc chính quyền Vua George III chà đạp nhân quyền của các thuộc địa. Không chỉ vậy, họ còn đưa nguyên tắc bảo vệ vào Hiến pháp sau này, thông qua khái niệm gọi là “quyền được xét xử công bằng” (due process).


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.