Hôm nay,  

Ân Sủng

05/04/200300:00:00(Xem: 5955)
Từ nhỏ tôi ưa la cà khắp xóm, kết bạn với đám trẻ con nhà nghèo. Tôi nhớ mãi một người bạn con lai Tây, mẹ đi ở đợ để nuôi con học trường Tây. Năm nào người bạn này cũng phải xin học bổng vì gia cảnh quá nghèo. Đến năm cuối của cấp tiểu học anh bạn này phải bỏ ngang vì nhà trường ngưng không cấp học bổng.

Tôi có một anh bạn khác có tật ăn cắp. Anh lớn lên trong cảnh gia đình túng quẫn nên ăn cắp đã thành cá tính, không bỏ được. Anh chỉ ăn cắp những cái cỏn con, nho nhỏ và lấy làm sung sướng. Có lần hai đứa rủ nhau đi mua chanh để làm nước giải khát. Tôi sửng sốt khi thấy anh mua chỉ một trái rồi trong khi bà bán hàng đang loay hoay thối tiền, anh thuổng thêm một trái nữa thành hai. Thấy tôi trố mắt nhìn, anh cười bẽn lẽn. Điểm đặc biệt của anh bạn này là rất rộng lươ.ng. Anh ăn cắp về rồi chia sẻ hết với bạn bè, chẳng giữ gì làm của riêng.

Ngược lại, trong trường tôi học cũng có mấy anh bạn con nhà giầu su.. Có chàng ở nhà vila ngay tại Sàigòn mà có cả một vườn cỏ rộng lớn thả ngựa. Khi cả nước đang khói lửa chiến tranh thì chiều chiều chàng cưỡi ngựa rong chơi. Trong nhà có hồ bơi, có rạp chiếu xi-nê nhỏ cho riêng gia đình xem. Gia nhân, lính gác, tài xế, đầu bếp lên đến hàng chục người. Tôi ít giao du với mấy người bạn như vậy. Chẳng phải vì họ xấu mà vì tôi thấy nơi họ không có gì hấp dẫn để tìm hiểu. Hình như sự dư thừa vật chất làm cho tâm hồn con người ta nghèo nàn đi thì phải.

Những kinh nghiệm ấu thời này lưu lại ấn tượng sâu đậm nơi tôi. Lớn lên tôi chỉ thích giao du với những con người khốn khó vì họ có những kinh nghiệm sống phong phú để tìm hiểu.

Rồi năm 1988, tôi tình cờ bước chân vào cuộc tranh đấu cho thuyền nhân. Chân ướt chân ráo, lúc ấy tôi nào ngờ là công việc sẽ kéo dài đến đúng một chục năm. Và lại càng không ngờ là một chục năm ấy là một chục năm ân sủng hiếm hoi.

Tôi gọi là ân sủng vì thời gian ấy tôi được sống trong một thế giới kỳ diệu, kết lại từ hàng ngàn cuộc đời khác nhau.

Năm 1988 cả thế giới, dẫn đầu là Hoa Kỳ, quay lưng lại với thuyền nhân. Các quốc gia tạm dung vàcác quốc gia định cư quyết tâm dứt điểm làn sóng người Việt vượt biển. Họ đặt ra tiến trình thanh lọc, mà cuối cùng trở thành một trò vờ vĩnh dùng để loại trừ mọi người tị nạn và xua đuổi họ về Việt Nam.

Cùng với một vài người bạn trẻ khác, cả Mỹ cả Việt, tôi lập ra chương trình gởi luật sư đến các trại. Quốc tế dùng pháp lý thì mình đối chọi lại bằng pháp lý, trực diện và tháu cáy.

Trong nhiều chuyến hướng dẫn các phái đoàn luật sư đến trại tạm dung, tôi bắt tay lập hồ sơ. Vì đây là hồ sơ xin tị nạn, tôi phải hỏi han tỉ mỉ từng chi tiết trong cuộc đời của người đối diện. Sau đó phải viết lại cho có lớp lang. Nhiều lúc khám phá ra những điểm có vẻ bất nhất, tôi lại phải phỏng vấn đi phỏng vấn lại cho đến khi hiểu cặn kẽ và thoả đáng. Khi hoàn tất hồ sơ, tôi thuộc lòng cả cuộc đời của đương sự, với những ngã rẽ, những lau sậy, những sông ngòi, những đường mương cuộc đời. Bỗng dưng, con người ấy không phải chỉ là xác thịt mà trở thành một vũ trụ với những chiều sâu thăm thẳm, những ngõ ngách trùng điệp.

Tôi thấy tấm áo trên lưng người đối diện không phải chỉ là vải đã bạc mầu. Mà tấm áo ấy người vợ hiền đã dành dụm tiền mua, ủi và xếp ngay ngắn cho chồng đem theo ngày đi vượt biên. Những sợi chỉ sơ vì tháng năm đã từng dệt mộng ước của vợ con ở lại. Những mộng ước ấy đang phai dần với mầu áo.

Và trên khuôn mặt nhầu nát của người ngồi đối diện, tôi thấy được vết hằn của sự chờ đợi mỏi mòn và ứa lên nỗi tuyệt vọng với ngày tháng trôi qua. Qua giọng nói, tôi nghe được tiếng thoi thóp của niềm hy vọng đang ở phút lâm chung. Qua từng cử chỉ, tôi cảm nhận được sự giằng co nội tâm, bên này bảo thôi thì phó thác cho số phận còn bên kia nói hãy giữ lấy niềm tin, hãy chiến đấu đến cùng cho vợ con còn ở lại.

Như người lần đầu tiên mở mắt, tôi sực thấy cả một thế giới kỳ bí, hồn hậu, đậm mầu.

Và có những giây phút, tôi cảm giác như mình hoà nhập hẳn vào cuộc sống của người đối diện. Vuị với niềm vui của người ấy. Buồn với nỗi buồn của người ấy. Có lần, tôi choáng váng và rùng mình khi, chỉ trong một tích tắc, trào lên trong lòng cảm xúc tái tê từ những trang hồ sơ đang cầm trên tay. Làm như một luồng khí từ những trang giấy truyền qua tay đến khắp thân thể, rồi vỡ ồ ra thành trăm ngàn mảnh tình cảm ngổn ngang. Như bị điện giật, phải mấy phút sau mới thật sự hoàn hồn.

Có vài người thắc mắc, lý do nào làm tôi đeo đuổi công việc mười năm. Đơn giản lắm, tôi không thể bỏ cuộc vì đời sống của hàng ngàn con người mà tôi biết rất rõ đã trở thành đời sống của riêng tôi.

Vào những ngày tàn của vấn đề thuyền nhân, tôi có dịp nhìn lại mười năm đã qua. Tôi thấy trong mình mang dấu ấn của một ngàn cuộc sống khác nhau. Những cuộc sống mà lẽ ra là những thửa đất rào khép, cấm kỵ, vì tình cờ tôi may mắn được bước vào để hiểu, để cảm, để sống. Các thuyền nhân đã cho tôi một ân sủng hiếm ai trên thế gian này có được. Họ không biết đó, tôi là người cám ơn ho..

Thuở nhỏ khi còn la cà từ đầu phố đến cuối xóm, có khi nào tôi ngờ được là lớn lên tôi có cơ hội la cà trên cả một vùng thế giới. Có khi nào cậu bé ưa tìm hiểu những người bạn nhỏ nhà nghèo lớn lên lại được may mắn hoà nhập vào với hàng ngàn thế giới của những con người khốn cùng, để cùng với họ nuôi dưỡng hy vọng, niềm tin, và ngọn lửa tranh đấu.

Cách đây mấy năm, một cô bạn nhỏ hỏi tôi lần đầu gặp gỡ: "Vì sao anh làm điều anh đang làm" Và anh chỉ có 30 giây để trả lời thôi đấy."

"Mỗi người sinh ra chỉ có một cuộc sống. Nhưng nếu muốn, chúng ta ai cũng có thể chọn sống một ngàn cuộc đời. Tôi làm chuyện này vì nó cho tôi sống rất nhiều cuộc sống cùng một lúc, mỗi ngày."

Tôi không hiểu cô bạn nhỏ ấy có hiểu gì không hay nghĩ rằng tôi đang mê sảng.
(Trích Mạch Sống, Tháng 3, 2003)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.