Hôm nay,  

Con Đường Tự Diệt

23/04/200600:00:00(Xem: 2483)

Năm 1984, bà Barbara W. Tuchman viết cuốn sách nhan đề: “The March of Folly” tạm dịch là: “Con đường tự diệt” (*) . Bà Tuchman nhắc lại những hành động điên rồ của con người qua lịch sử để chứng minh con người là một sinh vật có lẽ ngu ngốc và tàn ác nhất trong những sinh vật hiện hữu trên trái đất.<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />

 

Bà Tuchman nói đến sự độc đoán của con người, tham vọng quá đáng, sự suy thoái trước mắt ai cũng thấy (mà không làm gì cả) và nhấn mạnh đến sự “ngu xuẩn” và “ngoan cố” là hai tính chất mà theo bà Tuchman sẽ dẫn nhân loại đến bờ vực thẳm. Theo bà, trong chính trị tính ngu xuẩn và ngoan cố là cứ ù lì đi theo con đường ngược với quyền lợi của quốc gia.

 

Cuốn sách của bà Barbara Tuchman viết cách đây 26 năm, ít ai chú ý vì luận đề phức tạp. Bà Tuchman định nghĩa tính ngu xuẩn trong chính trị có hai tính chất. Thứ nhất nó không phải là sản phẩm của một cá nhân mà là sản phẩm của một tập thể, và thứ hai ngay trong thời điểm nó đang xẩy ra đã có nhiều người cảnh giác sự tai hại của nó, và đưa ra giải pháp giải quyết khác nhưng những người có quyền quyết định không chịu lắng nghe.

 

Tính ngu xuẩn chính trị, bà Tuchman viết, không lệ thuộc vào thời gian và nơi chỗ. Nơi nào, thời nào nó đều có thể xẩy ra dưới mọi hình thức trong suốt lịch sử có ghi chép của con người, dù đó là thời đại độc tài hay thời đại dân chủ.

 

Bà Tuchman đưa ra một vài thí dụ điển hình trong lịch sử như trong thời đại Renaissance (gọi là thời đại Phục Hưng) tại Ý, con người trở nên tin tưởng vào khả năng tự tạo hạnh phúc cho mình chứ không do một quyền lực siêu nhiên nào ban phát, thì trong vòng 60 năm từ 1470 cho đến 1530 sáu vị Giáo hoàng (trong đó có 5 vị gốc Ý) đã không chút quan tâm đến những biến chuyển tâm lý này và do đó mới có phong trào bỏ đạo để hình thành giáo phái Tin Lành kéo theo sau đó nhiều thế kỷ chết chóc cho thế giới Tây phương.

 

Một thí dụ khác là thái độ  kiêu ngạo và tự mãn của quốc hội Anh đã làm Anh quốc mất Mỹ châu. Bà Tuchman viện dẫn quyết định có tính quyết đoán kẻ cả mà quên nhìn vào thực tế của Quốc hội Anh quốc vào năm 1763 khi thông qua luật buộc người Anh ở thuộc địa Mỹ phải đóng thuế cho Anh hoàng. Vào thế kỷ thứ 18 người Anh sang định cư ở Mỹ vẫn xem mình là con dân của nước Anh, nhưng họ không chấp nhận quyền hành của quốc hội Anh vì họ không được phép bầu người đại diện vào quốc hội. Quyết định của quốc hội Anh đã làm cho toàn dân tại thuộc địa bắc Mỹ phẫn uất, kết quả làm nước Anh mất thuộc địa Mỹ và từ đó mất dần uy tín của một đại cường.

 

Khi bà Tuchman viết cuốn “The March to Folly” cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc đã 9 năm nhưng vết thương “hội chứng” gọi là hội chứng Việt Nam (Vietnam Syndrome) vẫn còn và bà Tuchman đã dùng trường hợp Hoa Kỳ dính vào cuộc chiến đó là một trường hợp “làm mà không biết mình đang làm gì” của những nhà chính trị một thời được mệnh danh là “the bests and the brightests” của nước Mỹ.

 

Trước khi cuộc thế giới chiến tranh thứ 2 sắp kết thúc tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt quyết định đã đến lúc chấm dứt chế độ thuộc địa trên thế giới, nhất là quyết ý ngăn cản sự trở lại Đông Dương của chính phủ de Gaulle, dù Pháp dọa rằng nếu Mỹ không giúp Pháp lấy lại Đông Dương Pháp có thể ngả theo phía Liên bang Xô viết trong cuộc tranh chấp của hai phe thắng trận tại Âu châu. Tổng thống <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />Rooseveltđang do dự thì ông đột ngột qua đời (15/4/1945) và sau đó các chính quyền Truman, Eisenhower nhượng bộ Pháp. Chỉ có tổng thống John F. Kennedy là người thấy trước được sự khó khăn mà Hoa Kỳ sẽ lãnh lấy trên vai người Pháp và đã tính toán việc rút ra khỏi Việt Nam, nhưng sau khi ông bị ám sát chết tháng 11 năm 1963 thì việc nước Mỹ dính vào cuộc chiến Việt Nam không còn là một vấn đề bàn cãi nữa mà trở thành một phần trong chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ. Bà Barbara Tuchman kết luận cuộc chiến Việt Nam làm cho hơn 50 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ và hằng triệu người Việt hai bên chiến tuyến chết là một cuộc chiến mà những người dẫn tới đó thật ra đã không ý thức rõ mình đang làm gì. Ông McNamara, một người trong cuộc đã bày tỏ sự trăn trở này trong cuốn In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vienam ông viết năm 1995.

 

Những chính thể cộng sản, nói là chính quyền của giới công nhân cũng hành động không khác gì các chế độ thời phong kiến, nếu không muốn nói tệ hại hơn. Dưới chính thể dân chủ quốc xã, Hitler và tập đoàn của ông đã giết 6 triệu người Do thái. Mao Trạch Đông với chương trình “bước nhảy vọt” đã có ảo mộng làm lò luyện thép trong từng ngôi xóm nhỏ để sản xuất cho kịp người Mỹ, nông dân bỏ đồng bỏ ruộng làm ít nhất từ 20 đến 30 triệu người dân chết đói. Và cái giá dân Nga trả để thiết lập thế giới đại đồng mộng tưởng của Lenine và sau đó là Stalin có lẽ đã nặng hơn những lỗi lầm và sự quá đáng của Nga hoàng nhiều (lúc bà Barbara Tuchman viết cuốn sách, Liên bang Xô viết chưa sụp đổ). Bà Tuchman không quên nhắc đến cuộc cách mạng Pháp năm 1789, cuộc cánh mạng dân chủ mẫu mực làm mất bao nhiêu bút mực trên thế giới cũng mau chóng trở thành một chế độ độc tài dưới danh nghĩa bảo vệ dân chủ khi luật sư Maximilien Robespierre nắm chắc được chính quyền.

 

Đặt vấn đề như vậy, bà Tuchman tự hỏi: Nếu biết bản chất của con người và chính quyền là như vậy tại sao những người hiền (the wise men) không tính trước để tránh những hậu quả tai hại đó.Theo bà Tuchman, nhà hiền triết Plato đã nghĩ đến vấn đề này và ông đề nghị đào tạo một lớp chuyên viên lãnh đạo chính trị, những người không phải chỉ được huấn luyện về nghệ thuật chỉ huy mà còn phải được huấn luyện và có truyền thống về một triết lý sống tốt đẹp.

 

Barbara Tuchman nói cái tồi tệ nhất trong chính trị là những đầu óc gần như gỗ đá, tin tưởng vào suy tưởng cho là tuyệt đối của mình. Nếu bà Barbara Tuchman có cơ hội quan sát hiện tượng về cái gọi là đại hội 10 của đảng Cộng Sản Việt Nam đang họp tại Hà Nội bà sẽ không ngần ngại ghi vào sách của bà đây là trường hợp đặc thù nhất của tính gỗ đá của trí tuệ. Trong thời gian chuẩn bị kéo dài hơn một năm, đảng Cộng Sản Việt Namnói sẽ thay đổi để hội nhập vào thế giới văn minh đang trên đà toàn cầu hóa. Một số người Việt có lòng trong và ngoài nước “tưởng thật” cũng đóng góp ý kiến với tất cả nhiệt tình và thiện chí. Nhưng “con voi đẻ ra con chuột”. Bản báo cáo chính trị của đại hội tái xác định nguyên tắc đi theo con đường “Mác Xít – Lêninít”, nói cách khác là vẫn đi theo con đường độc đảng, không đa nguyên, đa đảng, không bỏ điều 4 Hiến pháp. Và cái đại hội ồn ào đang diễn ra tại Hà Nội từ ngày 18 đến ngày 25 tháng 4 sẽ không khác gì hơn một hội đồng con nít “nói mà chơi”.

 

Cái điều lạ lùng mà những ai từng qua sát tình hình đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam không khỏi không ngạc nhiên là trước đại hội của đảng Cộng sản Việt Nam khoảng hai tuần lễ có một phong trào “tuyên ngôn dân chủ” và điều này cũng trùng hợp với  thời gian (từ ngày 12 đến ngày 17/4/20) một phái đoàn dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ do chính ông chủ tịch Hạ nghị viện Dennis Hastert hướng dẫn đến thăm Việt Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn người ta thấy xuất hiện ba văn kiện liên quan đến việc đòi hỏi dân chủ, và quyền lập hội. Ngày 6/4/2006 là một bản gọi là “Lời kêu gọi đảng Cộng sản Việt Namcho phép thành lập chính đảng ở Việt Nam” do 116 người trong nước ký tên mà đứng đầu là các linh mục Công giáo. Hai ngày sau (8/4/2006), một bản văn khác chỉnh đốn hơn gọi là bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ cũng lại được phổ biến từ trong nước (có lẽ vì thấy bản tuyên bố đòi lập chính đảng quá nặng mầu sắc tôn giáo). Chưa hết, ngày 15/4/2006 tại San José, California đảng Nhân Dân Hành Động lại họp báo và cho phổ biến một bản văn gọi là “Tuyên Ngôn Dân Chủ” do Phong Trào Dân Chủ Việt Nam ký tên và sau này được giải thích là do ông Trần Khuê soạn thảo.

 

Người Việt Nam trong và ngoài nước đã vui mừng khi đọc bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ ngày 8/4, nhưng còn hy vọng và chờ đợi hơn ở bản Tuyên Ngôn Dân Chủ phổ biến tại San José, hy vọng rằng nó báo hiệu một bước nhảy vọt trong cuộc tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam giống như bản Hiến chương 1977 của hơn 200 nhân sĩ Tiệp Khắc đã tạo ra cuộc cách mạng nhung tại xứ này gần 30 năm trước. Nhưng mọi người đã hết sức thất vọng vì nội dung bản Tuyên Ngôn Dân Chủ phổ biến ngày 15/4 tại Hoa Kỳ quá nghèo nàn và không nói được gì. Qua những gì ông Trần Khuê đã viết trong quá khứ (xem tập Đối Thoại do Hội Nhân Dân Việt Nam Chống Tham Nhũng phát hành năm 1993) không ai tin ông Trần Khuê, dù cho trong sự vội vàng tuyệt đối, là tác giả của một bản văn nghèo nàn như vậy.

 

Chưa thấy ai trong số 118 người ký yên trong bản Tuyên Ngôn Dân Chủ Tự do bị làm phiền phức, ngoại trừ ông Đỗ Phương Nam. Và linh mục Nguyễn Văn Lý (một người đấu tranh có nhiều “vấn đề” chưa được giải thích thỏa đáng trong thời gian ông ở tù và ngay cả trong nội bộ Giáo hội Công giáo) lên tiếng thay, giải thích về các phong trào dân chủ và tại sao lại có hai bản Tuyên Ngôn trong một thời gian ngắn như vậy. Bản giải thích của linh mục Nguyễn Văn Lý không giải thích được gì ngoại trừ muốn nói lên rằng hai nhân vật chính yếu của Phong Trào Dân Chủ Việt Nam trong nước là ông Hoàng Minh Chính và Trần Khuê không còn chơi với nhau nữa. Ông Nguyễn Chính Kết giải thích thêm qua một lá thư gởi chung ra hải ngoại rằng có sự lỉnh kỉnh trong Phong Trào Dân Chủ là do quan niệm chính trị, tính quyết đoán và lề lối làm việc có tính cách cá nhân của linh mục Nguyễn Văn Lý.

 

Một giả thuyết cho rằng Phong Trào Dân Chủ Việt Nam muốn khai thác cơ hội, thứ nhất là sự bận rộn của đảng Cộng sản Việt Nam với đại hội 10 gần kề, thứ hai là áp lực do cuộc thăm viếng của phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ nên đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không thể hay không dám hành động gì. Nếu giả thuyết này đúng thì quả thật phong trào đấu tranh cho tự do và dân chủ còn phải phải học hỏi nhiều, trước hết là hiểu mình hiểu ta, thứ hai là tính ỷ lại vào ngoại bang. Và điều quan trọng hơn cả là qua những gì đã xẩy ra chúng ta không thể gạt bỏ gỉả thuyết rằng đảng Cộng sản Việt Namđã gài người và đang thao túng phong trào dân chủ mà mục đích chính là làm mất sự tin tưởng của người dân.

 

Cuốn sách của bà Barbara W. Tuchman là một cuốn sách đáng đọc, nhất là những nhà đấu tranh dân chủ cho Việt Namtrong và ngoài nước để tránh cho phong trào dân chủ đang đi gần tới đích lại tự dẫn nhau vào con đường tự diệt. 

 

Trần Bình Nam

 

April 21, 2006

 

[email protected]

 

www.tranbinhnam.com

 

(*) Thật ra ý của bà Barbara Tuchman là: “Con đường ngu ngốc”.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.