Hôm nay,  

Thư Từ Nhiệm

04/04/200300:00:00(Xem: 4638)
LTS. Cuộc chiến Iraq đã gây nhiều tranh luận không những khắp thế giới, mà cả trong nội bộ chính phủ Hoa Kỳ. Mặc dù bài sau đây không phản ảnh quan điểm VB, nhưng lại chứa đựng rất nhiều thông tin nên biết về cuộc tranh luận trong nội bộ chính phủ Hoa Kỳ, và đặc biệt của các chuyên gia Bộ Ngoại Giao.
Lời người dịch: Thư từ nhiệm (Letter of Resignation) sau đây, gửi cho Ngoại Trưởng Colin Powell, của John Brady Kiesling, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ, đã từng phục vụ tại tòa đại sứ Mỹ ở Tel Avis, Casablanca, Yerevan. Gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, Colin Powell. Đăng trên tạp chí Điểm Báo Nữu Ước (NYRB), số đề ngày 10 tháng Tư 2003.
*
Ngài Bộ Trưởng kính mến,
Tôi viết thư này tới Ngài, để xin từ bỏ nhiệm vụ của tôi là cố vấn chính trị tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Athens, thuộc Bộ Ngoại Giao, có hiệu lực kể từ ngày 7 tháng Ba. Tôi thật đau lòng khi làm điều này. Hành trang mà tôi mang theo từ lúc còn trẻ tới bây giờ khiến tôi không thể quên được một điều, rằng, mình phải đền đáp xứ sở một điều gì đó.
Làm nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ đúng là một việc làm mơ ước. Tôi được trả công, để học và để hiểu biết về văn hóa, ngôn ngữ các nước. Để tạo mối thân quen trong số những nhà ngoại giao, những chính trị gia, những nhà học giả, và những nhà báo, và để cố gắng, tìm đủ mọi cách, nói cho họ hiểu rằng, quyền lợi của Hoa Kỳ và của họ, cơ bản mà nói, là trùng hợp. Lòng tin của tôi vào xứ sở của mình là một vũ khí mãnh liệt nhất, trong kho vũ khí ngoại giao của Hoa Kỳ.
Không thể tránh được rằng, trong hai chục năm trời làm việc tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, tôi mỗi ngày một trở nên tinh tế và miệt thị (sophisticated and cynical) đối với những động cơ mang tính thư lại, ích kỷ, và chật hẹp, mà đôi khi, đã vẽ nên bộ dạng những chính sách [ngoại giao] của chúng ta. Con người vốn sao thì là vậy. Và tôi được khen thưởng, được thăng tiến trong nghề nghiệp, là vì hiểu được bản chất của con người. Nhưng, kể từ trước khi có cái chính phủ này, tôi nghĩ rằng, chuyện sau đây thật dễ ợt: rằng cứ ôm lấy những chính sách mà tổng thống của mình đề ra tức là ôm lấy những quyền lợi của dân chúng Hoa Kỳ và của thế giới. Tôi không còn tin như vậy nữa.
Những chính sách mà chúng ta bây giờ được yêu cầu tiến hành, không thích hợp, không chỉ với giá trị, mà còn với quyền lợi của Hoa Kỳ. Việc hăm hở theo đuổi cuộc chiến với Iraq đã đưa chúng ta tới chỗ, làm phí phạm gia tài về tính chính đáng quốc tế, và đây là một võ khí có uy lực nhất, hiệu nghiệm nhất, cả về công lẫn thủ, của Hoa Kỳ, kể từ thời Woodrow Wilson. Chúng ta bắt đầu phá hủy mạng lưới hữu hiệu nhất, rộng lớn nhất của những liên hệ quốc tế mà thế giới trước đây chưa hề biết đến. Cứ đà này, sẽ chỉ đem tới bất ổn, hiểm nguy, và chẳng còn an ninh.
Việc hy sinh quyền lợi toàn cầu cho những chính sách nội địa, và cho quyền lợi của mình, thì cũng xưa như trái đất, và chắc chắn không phải Hoa Kỳ là quốc gia độc nhất trên thế giới vướng phải vấn đề này. Tuy nhiên, kể từ chiến tranh Việt Nam, chưa bao giờ nó lại làm phiền chúng ta như thế, ấy là tôi nói về trò bóp méo một cách hệ thống lương tri, sự hiểu biết, và trí thông minh, và trò ma nớp lôi kéo dư luận quần chúng Hoa Kỳ. Thảm kịch 11 tháng Chín, bi thương là thế, nhưng một khi bi thương lắng xuống, điều mà thảm kịch đó để lại cho chúng ta là: nó làm cho chúng ta mạnh hơn trước, lần đầu tiên, quây quần quanh chúng ta là một liên minh quốc tế rộng lớn cùng hợp tác, theo một đường lối có hoạch định đàng hoàng, nhằm chống lại chủ nghĩa khủng bố. Nhưng thay vì coi những thành tựu đó, như một cái vốn lận lưng, và cứ thế tiến lên, thêm thắt mãi ra, chính quyền này đã chọn lựa điều tệ hại nhất, đó là sử dụng khủng bố vào những mục tiêu chính trị mang tính nội địa, và coi nhóm al-Qaeda hầu như đã bị đánh bại, và tan rã ra khắp nơi, là đồng minh thư lại của nó. Chúng ta làm tràn lan nỗi khiếp sợ không tương xứng, và sự lầm lẫn không biết đâu mà lần, ở trong đầu mọi người. Chúng ta thoải mái, vô tư, coi Iraq và khủng bố là một.
Hậu quả - có lẽ phải nói động cơ - là biện minh cho việc phân phối, sử dụng sai lầm khá nhiều, tài sản công cộng vốn đang teo lại, cho việc binh đao, và làm yếu đi những bộ phận an toàn, bảo vệ công dân Hoa Kỳ khỏi bàn tay nặng nề của chính quyền. Mình làm hại mình, biến cố 11 tháng Chín không gây tổn hại nhiều cho kiến tạo xã hội Hoa Kỳ, so với những gì chúng ta làm cho chính chúng ta. Liệu chăng, triều đại Nga Hoàng vừa mới cáo chung đúng là thứ khuôn mẫu để chúng ta noi theo: một đế quốc vị kỷ, mê tín, đại bại, cuối cùng tự hủy diệt, nhân danh tình trạng từ chết đến bị thương hiện nay"

Chúng ta nên tự hỏi chính mình, tại làm sao mà thế giới chẳng thèm nghe thêm chúng ta, dù chỉ nửa lời, rằng cuộc chiến với Iraq là cần thiết. Hơn hai năm trời, chúng ta đã làm, quá đủ mọi chuyện, để khẳng định với "phe ta" trên thế giới, rằng quyền lợi hạn hẹp và vụ lợi của Hoa Kỳ chỉ là đồ bỏ, cần thì vứt vô thùng rác, nếu một khi đụng tới những giá trị rất đỗi thân thương của phe ta. Ngay cả khi không mắc mớ gì tới những mục đích của chúng ta, thì thái độ một lòng một dạ với phe ta cũng được nhắc tới. Chuyện Afghanistan còn nóng hổi, hẳn nhiên phe ta chẳng được hài lòng cho lắm, và họ sẽ tự hỏi, chúng ta tái thiết Trung Đông trên căn bản nào, những ai có hình ảnh của mình, và - hãy cứ nói đại ra ở đây - những ai có quyền xí phần, ở đó" Hay là chúng ta mù rồi, như Nga Xô đã mù ở Chechnya, như Isarel đã mù ở Vùng Đất Chiếm Đóng, và nếu không phải mù như họ, thì thôi vậy, mình nói mình nghe, chẳng lẽ trị bọn khủng bố, chỉ có mỗi một cách là dùng vũ lực hạng nặng, nện tới nện tấp, cho chúng chết hết không còn một mống" Sau hỗn loạn của một Iraq hậu chiến là những hỗn loạn ở Grozny và Ramallah, và phải là một người ngoại quốc can trường lắm mới kết hàng với những tiểu đảo ở vùng Thái Bình Dương (Micronesia), để mà cùng đi với chúng ta tới bất kỳ nơi đâu.
Chúng ta vẫn còn phe ta. Thứ tốt, thứ xịn. Tình bạn trung thành của họ thật đáng nể, và là vòng hoa choàng lên lâu đài của những giá trị về tinh thần và đạo đức mà chúng ta xây dựng từ trên một thế kỷ. Và những bạn bè thân thiết nhất với chúng ta, bảo cho chúng ta biết rằng, thật khó biện minh, nhưng thật dễ dàng tiên đoán, rằng cuộc chiến sẽ đầy hung hiểm, và sẽ khiến cho nước Mỹ rơi vào tình trạng thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn. Trung thành là phải có đi có lại, mới toại lòng nhau. Tại làm sao tổng thống của chúng ta lại dung thứ, và cho phép cứ thế mà làm, cái kiểu gặp gỡ, tiếp xúc, ngay ở trong số hàng ngũ những viên chức cao cấp nhất của chính phủ này, với bạn bè và đồng minh: ngạo mạn, khinh khi" Phải chăng câu nói "Mặc họ ghét ta, miễn họ sợ ta", là chân lý dẫn đường của chúng ta"
Tôi khẩn thiết yêu cầu Ngài hãy lắng nghe những bạn bè của Hoa Kỳ ở khắp năm châu bốn biển. Ngay cả ở đây, Hy Lạp, nơi mà tinh thần bài Mỹ theo kiểu Âu Châu được coi là hết thuốc chữa, chúng ta có nhiều bạn, và bạn thân, hơn là độc giả nhật báo Mỹ có thể tưởng tượng ra được. Ngay cả khi than phiền về tính ngạo mạn của Mỹ, người Hy Lạp vẫn hiểu rằng, thế giới là một nơi chốn khó khăn và nguy hiểm, và họ muốn có một hệ thống quốc tế mạnh, với Hoa Kỳ và Cộng Đồng Âu Châu (EU), như là những bằng hữu (partners) thân thiết. Khi bạn bè của chúng ta sợ chúng ta, hơn là sợ "cho" chúng ta, ấy là lúc có chuyện trục trặc cần phải coi lại. Và bây giờ, họ đang sợ. Ai làm cho họ tin tưởng rằng, Hoa Kỳ là, và vẫn luôn luôn là, một ngọn đèn pha soi sáng tự do, an ninh, và công lý của hành tinh này"
Thưa Ngài Bộ Trưởng,
Tôi xiết bao kính trọng Ngài, về tính tình, tư cách cũng như về khả năng, sự nhanh nhạy. Ngài đã giữ lại được, biết bao tin cậy của quốc tế đối với Hoa Kỳ, so với chính sách ngoại giao của chúng ta xứng đáng có, và còn cứu được một điều gì tích cực, khỏi những quá đáng của một chính phủ tự tung tự tác và chạy theo ý thức hệ.
Nhưng lòng trung thành của Ngài với Tổng Thống đi quá xa. Chúng ta căng, quá sức chịu đựng cũng như là giới hạn của nó, một hệ thống quốc tế mà chúng ta xây dựng với biết bao công của, một mạng lưới luật pháp, hiệp ước, tổ chức, và những giá trị cùng chia sẻ, chúng định giới hạn cho kẻ đồi đầu chúng ta, hữu hiệu hơn hẳn, so với cái "ràng" khả năng của Hoa Kỳ, nhằm bảo vệ những quyền lợi của nó.
Tôi xin từ nhiệm, bởi vì đã cố gắng, nhưng thất bại, trong việc hòa giải lương tâm với khả năng của mình để đại diện chính phủ hiện nay của Hoa Kỳ. Tôi tin rằng, tiến trình dân chủ của chúng ta tự sửa sai cho chính nó, vào lúc tối hậu, và hy vọng rằng, trong một đường hướng nhỏ nhoi, tôi có thể đóng góp, từ phía bên ngoài, trong việc tạo vóc dáng những chính sách phục vụ tốt hơn cho an ninh và thịnh vượng của dân chúng Hoa Kỳ và của thế giới mà chúng ta chia sẻ.
Jennifer Tran chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Các cuộc thăm dò cho thấy mức độ ủng hộ Trump của cử tri đang ở mức thấp kỷ lục đối với một nhà lãnh đạo sau ba tháng đầu của nhiệm kỳ. Đa số phản đối chính sách thuế quan và cắt giảm lực lượng nhân sự liên bang của ông.
Hành động công kích đầy bất ngờ của Tổng thống Trump nhắm vào nền giáo dục đại học đã vô tình đánh thức tinh thần phản kháng của Harvard cùng hơn 100 trường đại học trên khắp 40 tiểu bang. Sự kiện này cũng để lại một bài học đáng suy ngẫm: nhượng bộ và đầu hàng trước những áp lực ngang ngược, vô lý không phải là cách tồn tại bền vững cho bất kỳ tổ chức nào. Sự việc khởi đầu với lá thư ngày 11 tháng 4 từ chính quyền Trump, trong đó đưa ra hàng loạt yêu cầu đối với Đại học Harvard. Ngay lập tức trường Harvard từ chối, vậy là chính phủ thẳng tay đóng băng khoản ngân sách tài trợ trị giá 2.3 tỷ MK. Ngoài ra, Trump còn dọa tước bỏ quy chế miễn thuế của trường. Hành động này bị nhiều người xem là sự lạm quyền nhằm chi phối một cơ sở giáo dục tư thục, và đã vô tình khơi dậy làn sóng ủng hộ quyền tự chủ của các đại học trên khắp Hoa Kỳ.
"Tự do tư tưởng và tìm kiếm sự thật, cùng với sự cam kết lâu đời của chính phủ trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền này, đã giúp các trường đại học đóng góp một cách thiết yếu cho xã hội tự do và cuộc sống lành mạnh, thịnh vượng hơn cho mọi người ở khắp các mọi nơi. Tất cả chúng ta đều có chung lợi ích trong việc bảo vệ sự tự do đó. Như lệ thường, chúng ta tiến bước lúc này với niềm tin rằng việc theo đuổi chân lý can đảm và không bị ràng buộc sẽ giải phóng nhân loại, và với niềm tin vào lời cam kết bền bỉ mà các trường cao đẳng và đại học của Hoa Kỳ đã gìn giữ cho quốc gia và thế giới của chúng ta."
Phải làm gì với một Tổng thống Hoa Kỳ không tôn trọng luật pháp của chính quốc gia mình? Vấn đề này nổi lên sau vụ việc chính quyền Trump phớt lờ phán quyết của tòa án liên bang, vẫn để các chuyến bay trục xuất người Venezuela khởi hành đến El Salvador dù tòa đã ra lệnh đình chỉ toàn bộ các chuyến bay đó. Hành động này cho thấy sự thách thức công khai đối với quyền lực tư pháp, và phản ánh sự thiếu hiểu biết (hoặc cố tình phớt lờ) nguyên tắc tam quyền phân lập, vốn là nền tảng của thể chế Hoa Kỳ. Theo Hiến pháp, một tổng thống không có quyền bác bỏ hay phớt lờ phán quyết của tòa án.
Lệnh hành pháp khi được công bố luôn tạo nhiều dư luận trái chiều. Lệnh càng ảnh hưởng nhiều người thì tranh cãi càng kéo dài. Gần đây trong một buổi họp mặt, một người bạn của tôi thốt tiếng than: “Chẳng hiểu thành viên Quốc hội Mỹ của cả hai đảng bây giờ làm gì mà cứ im lìm để tổng thống muốn ra lệnh gì thì ra”. Người khác thắc mắc, nếu tổng thống dùng lệnh hành pháp để đưa ra những quyết định không đúng luật, hay trái với hiến pháp, thì cơ quan nào sẽ có trách nhiệm can thiệp? Bài viết này không phân tích một lệnh hành pháp cụ thể nào, mà chỉ nhằm giải thích cách vận hành của Executive Order, quy trình thách thức nếu cần, cũng như những giới hạn của một mệnh lệnh do tổng thống ban hành.
Medicaid đang trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của chính quyền Trump trong chiến dịch cắt giảm ngân sách liên bang. Là chương trình bảo hiểm y tế do liên bang và tiểu bang phối hợp thực hiện, Medicaid cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho hơn 72 triệu người dân Hoa Kỳ, bao gồm những người có thu nhập thấp, trẻ em và người tàn tật. Ngoài ra, Medicaid cũng góp phần hỗ trợ chi phí chăm sóc lâu dài cho người cao niên.
Gần đây, nhiều hình ảnh và video lan truyền trên mạng xã hội đã khiến dư luận quốc tế kinh hoàng: hàng loạt sà lan quân sự khổng lồ của TQ – loại phương tiện chuyên dụng cho các chiến dịch đổ bộ từ đất liền ra biển – lần đầu tiên lộ diện. Ngay sau đó, vào ngày 1 tháng 4 năm 2025, Bắc Kinh tiến hành cuộc tập trận quân sự kéo dài hai ngày ở eo biển Đài Loan. Điều này càng làm dấy lên lo ngại: Liệu TQ có đang chuẩn bị một cuộc xâm lược kiểu D-Day vào Đài Loan?
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.