Hôm nay,  

Thư Không Gửi

17/06/200600:00:00(Xem: 2860)

Thưa Thầy,

Không biết đây là lá thư thứ mấy, con đã viết mà không bao giờ gửi đi, bởi vì, biết gửi về đâu để tới được tay Thầy"! Những thư trước đã đầy nước mắt, thư này có khô ráo được không"

Chiều nay, quét lá ngoài vườn, con không ngớt nghĩ về con đường hẻm năm xưa, nơi một gia đình người miền Bắc di cư, được xóm người miền Nam đón nhận bằng tất cả ấm áp của tình người. Thầy ơi, con đường hẻm đó, đối với con đã thiêng liêng như con đường đất mấp mô dẫn ra bờ sông Ni Liên Thuyền khi sa-môn Gotama quyết định bỏ lối tu khổ hạnh. Ngài men xuống ven sông tắm gội như một hình thức làm mới lại tư tưởng, nhưng vì quá đuối sức sau nhiều ngày tháng ép xác, Ngài đã ngất xỉu trên đường trở lại khu rừng bên kia sông. May thay, một cô bé trong làng đang bưng mâm phẩm vật vào rừng cúng thần linh đã kịp nhìn thấy ông thầy tu khổ hạnh đó. Cô quỳ xuống dâng sữa. Giây lát, vị sa-môn tỉnh lại và cho cô biết Ngài là thái-tử con vua Tịnh Phạn, đã bỏ cung vàng điện ngọc ra đi tìm đạo.

Câu chuyện tuyệt vời này Thầy đã từng kể cho chúng con nghe nhưng năm xưa ấy, với lứa tuổi lên chín, lên mười, đám trẻ nhỏ trong xóm nghèo đâu có thấy hấp dẫn bằng chuyện Thạch Sanh-Lý Thông, Tấm Cám, Phạm Công-Cúc Hoa ..... với những tình tiết ly kỳ, những thắt mở hồi hộp hơn. Tuy thế, đám thiếu nhi Phật tử chúng con siêng đi chùa lắm vì tới chùa được bác Sáu cho oản chuối, được huynh Thiện Tâm dạy hát, dạy tụng kinh. Riêng hai chị em con, cứ cơm nước buổi tối xong là vào chùa vì chùa gần quá, qua nhà bà Hai bán gạo, nhà ông Năm xích lô, qua vườn rau của cô Bẩy thư ký, tới tiệm chạp phô chú Lìn là nhìn thấy mái chùa. Chùa nghèo lắm, hàng rào gỗ xiêu vẹo đã lâu, huynh Thiện Tâm chắp vá mãi vẫn xiêu vẹo, nói chi đến sơn lại những bờ tường rêu phong, loang lổ. Nhưng đất chùa rộng nên bác Sáu trồng đủ các loại rau, các loại bầu bí làm thực phẩm cho chùa; Rồi không biết do đâu, người trong xóm thấy rau trái nhiều đã tới xin mua lại khi họ cần. Bác Sáu đâu có bán! Bác Sáu bảo, ai cần thì cứ vào mà hái, cửa chùa có đóng bao giờ đâu.

Chùa nghèo, dân trong xóm cũng nghèo nhưng ai vào chùa xin rau trái đều nhẹ nhàng bỏ vào thùng phước sương ít nhiều, tùy theo khả năng mình. Thật thân thương biết bao tình người, nghĩa đạo. Chùa nghèo như thế mà bác Sáu đã bế vào chùa hai đứa bé mồ côi mà cha mẹ chúng bỏ trước sân chùa. Hai đứa bé đó là hai chú tiểu mà bác Sáu gọi tên là Tốt và Lành. Ngày đó, con cũng còn quá nhỏ, đâu có thắc mắc sao hai chú không có pháp danh đẹp đẽ  như Thiện Tâm, Thiện Hữu, Thiện Tường ...... mà lại là Tốt, Lành" Hoặc hai chú cũng có mà con chưa bao giờ nghe " Nhưng chúng con thì được Thầy và bác Sáu gọi bằng pháp danh ngay sau khi quy y. Quy y là gì " Thuở ấy con nào hiểu, chỉ biết rằng, nhằm lễ Vu Lan, huynh Thiện Tâm bảo "Các em quy y với Thầy đi, các em sẽ chính thức là con của Phật, Thầy sẽ cho các em một cái tên mới, như khi cha mẹ sinh con ra đều đặt tên cho các con vậy".

Con biết chị Tư bán xôi có pháp danh là Diệu Hương, chị Chín thợ may có pháp danh là Diệu Liên v... v... nên con nghe lời huynh Thiện Tâm, xin quy y cũng chỉ vì muốn được thầy cho một cái tên đẹp đẽ mà thôi! Ôi, tuổi nhỏ thơ ngây thật là tội lỗi!

Nào phải con chỉ không thắc mắc pháp danh của hai chú tiểu mà pháp danh của Thầy con cũng không hề biết! Bác Sáu là chị, thầy là em. Trong xóm gọi thầy là thầy Bẩy, chúng con cũng chỉ biết thế. Vào chùa chỉ biết vòng tay thưa "Lạy Thầy ạ". Thế thôi!

Sau khi chúng con quy y không bao lâu thì xóm nghèo đó ngập trong biển lửa vì nội chiến giữa lực lượng Bình Xuyên với chính quyền đương thời. Cà xóm đều chạy thoát nhưng tan tác muôn phương. Với bận rộn của tuổi học trò, với những sân ga, những bến đậu, những vui buồn của giòng sông tục lụy, con đã không hề trở lại xóm xưa, không biết Thầy đã đi đâu, về đâu!!!

Nửa thế kỷ đã trôi qua, nửa thế kỷ như một sát-na của kiếp sống, ở phút giây nào kỳ diệu đã bừng lên hai chữ "Diệu Trân" tận thẳm sâu tiềm thức. Khi bỗng chợt nhớ lại pháp danh của mình, con đã bật khóc nức nở, không phải chỉ khóc một lúc mà khóc một đêm, một ngày, nhiều đêm, nhiều ngày. Bất cứ biết có người quen nào về thăm quê hương, con đều nhờ tìm Thầy. Chùa xưa dù đã dựng lại sau hỏa hoạn nhưng Thầy không trụ ở đó nữa.

Chưa tuyệt vọng, con lại nhờ tìm tông tích huynh Thiện Tâm nhưng huynh đã về quê xa xôi làm rẫy! Thầy như bóng chim bay ngang lưng trời, không để lại dấu vết gì, chỉ còn lại trong con hai chữ "Diệu Trân", quằn quại tâm sám hối, không biết phải làm gì để đền đáp ơn Thầy"

Nơi xứ người, con khoác tấm áo lam lên thân tứ đại, tìm đến các chùa, làm công quả, từ xắt bí, gọt khoai, rửa chén bát,  tới lau chùi nhà vệ sinh, quét dọn, đổ rác ...... Con im lặng làm việc mà trong lòng không ngớt nức nở hai tiếng "Thầy ơi!". Con sợ nhất là khi thỉnh thoảng có người bạn đạo vô tình hỏi "Thầy Bổn-sư của Diệu Trân là ai"" hay "Tổ-đình Diệu Trân ở đâu"" con đều không kịp kìm giữ giòng nước mắt rào rạt trôi lăn. Một kẻ tự nhận là Phật tử mà không biết pháp danh của Thầy Bổn-sư, không biết Thầy nơi đâu, Tổ-đình nơi đâu, thì có xứng đáng là con Phật hay không"

Xong những công việc chấp tác, con mon men lên chánh điện, tìm một chỗ ngồi khiêm nhường nhất để được nghe giảng pháp. Giòng-Suối-Từ thầm lặng thẩm thấu vào sa-mạc mênh mông khổ não trong con, tới một ngày con bỗng hiểu rằng Thầy không chỉ là hình bóng Thầy Bẩy trụ trì ngôi chùa trong xóm nghèo mà Thầy còn là thời công-phu-sáng, thời kinh-trưa, thời thiền lặng lẽ khi trăng khuya bàng bạc bên khung cửa sổ. Thầy cũng là lời con phát nguyện khi tụng kinh Pháp-Hoa:

"Con nay phát nguyện rộng

Thọ trì kinh Pháp-Hoa

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ tam-đồ"

là bài kệ sáng ngời khi con tụng kinh Kim-Cang:

"Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào ảnh

Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán"

là bài tán Hội Liên-Trì khi con tụng kinh A-Di-Đà:

"Liên-Trì hải hội

Di Đà Như-Lai

Quan Âm Thế Chí tọa Liên-đài

Tiếp dẫn Thượng-kim-giai

Đại thệ hoằng khai

Phổ nguyện li trần ai"

là phút Quán Không, khi con tụng kinh Bát-Nhã, là Viên-Giác, Lăng-Nghiêm, Đại-Bảo-Đàn...Thầy vẫn ở cùng con trên từng lời Phật dạy. Thầy là người cha đã khai sinh ra con từ một bông hoa đặt nhẹ trên đỉnh đầu trong không gian tưới tẩm hương Vu Lan năm đó. Thầy nào có xa rời con" Thầy nào ngưng dạy dỗ" Chính Thầy đang dắt con tới từng đạo tràng, dạy con biết cách cúng dường, biết cách tu thân, biết nhận ra lỗi lầm, biết nhẫn nhục, biết tha thứ. Sao bấy lâu nay con không nhìn ra mà cứ đau khổ quằn quại "Thầy ơi! Thầy đâu"" trong tâm trạng đứa con lạc cha! Suốt nửa thế kỷ qua, con nào khác chi kẻ cùng tử trong phẩm "Tín Giải", kinh Pháp-Hoa, không nhận ra cha mình dù cha đang ở trước mặt.

Thưa Thầy,

Thầy đã quá từ bi và kiên trì đối với một đệ tử vô minh tột cùng như con. Phải nửa thế kỷ, tấm màn vô minh mới hé cho con chút ánh sáng. Không thể tình cờ người bệnh chợt khỏe, trẻ nhỏ chợt lớn. mà chắc chắn phải có sự chăm sóc, nuôi dưỡng dưới hình thức nào đó.

Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẫy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con trong mùa Vu Lan năm nào và nói: "Pháp danh con là Diệu Trân". Cảm xúc kỳ diệu đó, mãi đến ngày nay con mới cảm nhận được. Con xin tạ ơn Thầy, Thầy Bổn-sư của con. Trong mầu nhiệm của những điều không thể dẫn giải bằng lý trí, con nay tin chắc rằng Thầy đã không ngừng dạy dỗ con. Ngay cả những người chỉ sống bằng lý trí, tuyệt đối không tin những gì mà họ không nhìn, nghe, sờ mó được, họ đều quên rằng họ có nhìn, nghe, sờ mó được không khí đâu! Nhưng họ đã không thể chối bỏ sự hiện hữu của không khí trong mênh mông vũ trụ này.

Viết thư này cho Thầy, con tưởng rằng sẽ lại khóc tầm tã như những lá-thư không-gửi trước. Nhưng Thầy ơi, con đang nghe được tiếng bầy sẻ lao xao bên bờ tường. Chúng không ríu rít ca ngâm như mấy ông bà thi sỹ tưởng tượng mà chúng đang gọi con, chỉ để xin cơm nguội. Con mang cơm cho chúng hàng ngày, con biết rõ mà. Những cây bưởi đang đơm hoa cũng kêu khát nước, con nghe từng nhánh lá réo gọi dưới nắng hè chói chang; và những bông súng đang kèn cựa, xô đẩy những nụ sen đầu mùa rất thư thả mà vững chãi, nhô lên khỏi mặt nước. Thầy đang dạy con những bài học khó hơn, phải quán tưởng sâu sa hơn, lắng tâm tĩnh lặng hơn, mới giao cảm được sự chia xẻ thân thương cùng vạn hữu quanh ta. Khi nhận được điều đó, ta sẽ không còn cô đơn nữa.

Thưa Thầy,

Từ nay con đã có câu trả lời khi các bạn đạo hỏi:

- Thầy Bổn-sư của Diệu Trân là ai"

- Thưa, Thầy Bổn-sư của tôi là những vị dạy tôi biết nhận ra Phật tánh của mình.

- Tổ-đình của Diệu Trân ở đâu"

- Thưa, Tổ-đình của tôi là nơi Phật Pháp được rao giảng, như tinh thần phẩm "Hiện Bảo Tháp" trong kinh Pháp-Hoa, Phật Đa Bảo đã phát nguyện: "Nơi đâu có vị Phật thuyết kinh Pháp-Hoa, tôi sẽ hiện tháp nơi đó để tán thán".       

Trong không gian thơm ngát hương đạo vị, con cảm nhận rất rõ Thầy vừa dạy con điều ấy.

Con xin quỳ xuống, kính cẩn năm vóc tạ ơn Thầy.

Đệ tử của Thầy

Diệu Trân

(An Cư Kiết Hạ 2006)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rất ít từ nào được liên kết một cách chặt chẽ với Henry Kissinger quá cố hơn là "hòa hoãn". Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong ngành ngoại giao vào đầu những năm 1900, khi vị đại sứ Pháp tại Đức đã cố gắng - và thất bại - để cải thiện mối quan hệ đang xấu đi của đất nước của ông với Berlin, và vào năm 1912, khi các nhà ngoại giao Anh cố gắng làm điều tương tự...
Năm 2022 Bắc Kinh phong tỏa nghiêm nhặc nhiều thành phố lớn (gồm cả Thượng Hải) khi đại dịch Vũ Hán bùng phát trở lại ở Trung Quốc , sang đến đầu năm 2023 lại đột ngột hủy bỏ mọi lệnh cấm. Thế giới cho rằng nền kinh tế Trung Quốc sẽ phát triển nhảy vọt sau một thời gian dài bị kềm hãm nhưng trong thực tế tăng trưởng trì trệ khác với mong đợi. Sau 30 năm tương đối dễ thở dân Tàu chợt nhớ mình vẫn sống ngột ngạt dưới chế độ toàn trị...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Mời đọc bài viết mới nhất được tác giả gửi cho Việt Báo.
Tuy nhiên trong trường hợp các chế độ độc tài, thì câu trả lời rất phức tạp. Lý do là chế độc độc tài nào cũng “làm ra vẻ” dân chủ cả. Phương pháp chung của các chế độ độc tài là sử dụng một mô hình dân chủ, nhưng “làm bẩn” hay “làm ô uế” mô hình này, bằng một số thủ thuật “ma giáo”...
Tầm quan trọng của vấn đề nhân quyền đối với Phật giáo là hiển nhiên, vì trong những thập niên gần đây chủ đề này đã thu hút được sự quan tâm. Giới lãnh đạo Phật giáo từ nhiều nước châu Á, như Đức Đạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng), Aung San Suu Kyi (Myanmar), A. T. Ariyaratne (Sri Lanka), Maha Ghosananda (Kampuchea) và Sulak Sivaraksa (Thái Lan) đã nhiều lần bày tỏ mối quan tâm về các vấn đề xã hội và chính trị bằng cách sử dụng ngôn ngữ của nhân quyền. ..
Khi nhìn thấy các chữ cái A, B, C, D, E, F, G… nhiều người sẽ tự động muốn ngân nga bài hát bảng chữ cái. Nhưng không có lý do gì mà người ta phải học các chữ cái theo thứ tự nhất định. Có nhiều cách khác nhau để sắp xếp bảng chữ cái; và bàn phím máy tính là một thí dụ về một cách sắp xếp khác. Ngoài ra, còn có rất nhiều bảng chữ cái khác, cũng như các ngôn ngữ không sử dụng bảng chữ cái.
Khủng hoảng nhà đất hiện đe dọa sự tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc. Ngành xây cất chiếm 30% GDP (so với Hoa Kỳ 15-18% GDP) và là đầu tàu tăng trưởng thay thế cho xuất khẩu chậm lại sau khủng hoảng kinh tế ở Âu-Mỹ kể từ năm 2008. Nay đến lượt thị trường nhà đất suy thoái thì Bắc Kinh phải tìm cho ra đầu tàu mới để thay thế nhằm đạt mục tiêu phát triển 5% mỗi năm trong khi chính nhà nước còn đang lúng túng giải quyết khối nợ xấu khổng lồ ở các địa phương và của những công ty xây dựng. Bài 3 này đúc kết nhiều dữ kiện đã trình bày trước đây trong phần 1 và 2 để có cái nhìn toàn diện về khủng hoảng nhà đất ở Trung Quốc...
Gồm sử Việt và sử Trung Hoa. Sử Trung Hoa được đọc nhiều hơn cả chẳng hạn như các cuốn: Hạ Ký, cuốn sử viết về triều đại nhà Hạ; Đường Ký viết về triều đại nhà Đường; Hán Sử viết về triều đại nhà Hán ... Sử Ký là một tác phẩm đồ sộ về lịch sử nhưng cũng được coi là một tác phẩm văn học bởi văn phong mạch lạc và nhẹ nhàng của nó...
Chương 2 sẽ phân tích chính sách kinh tế của Trung Quốc trải qua nhiều giai đoạn, mục đích nhằm giúp người đọc nhận thấy một chính sách kinh tế đôi khi mất nhiều thập niên mới thấy hết hậu quả...
Sách Khải Định chính yếu (ghi lại các sự kiện thời Khải Định) chép rằng tháng Giêng năm 1919, thể thức kỳ thi Hội với những thay đổi, vua Khải Định phê: “Lần này là khoa thi Hội cuối cùng của triều đình, nên trẫm muốn gia ân cho sinh viên sĩ tử khoa mục trong cả nước, hễ ai thông thạo hai thứ chữ Nho và chữ Pháp thì trình diện Bộ Học để xin vào ứng thí”...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.