Hôm nay,  

Thư Không Gửi

17/06/200600:00:00(Xem: 2874)

Thưa Thầy,

Không biết đây là lá thư thứ mấy, con đã viết mà không bao giờ gửi đi, bởi vì, biết gửi về đâu để tới được tay Thầy"! Những thư trước đã đầy nước mắt, thư này có khô ráo được không"

Chiều nay, quét lá ngoài vườn, con không ngớt nghĩ về con đường hẻm năm xưa, nơi một gia đình người miền Bắc di cư, được xóm người miền Nam đón nhận bằng tất cả ấm áp của tình người. Thầy ơi, con đường hẻm đó, đối với con đã thiêng liêng như con đường đất mấp mô dẫn ra bờ sông Ni Liên Thuyền khi sa-môn Gotama quyết định bỏ lối tu khổ hạnh. Ngài men xuống ven sông tắm gội như một hình thức làm mới lại tư tưởng, nhưng vì quá đuối sức sau nhiều ngày tháng ép xác, Ngài đã ngất xỉu trên đường trở lại khu rừng bên kia sông. May thay, một cô bé trong làng đang bưng mâm phẩm vật vào rừng cúng thần linh đã kịp nhìn thấy ông thầy tu khổ hạnh đó. Cô quỳ xuống dâng sữa. Giây lát, vị sa-môn tỉnh lại và cho cô biết Ngài là thái-tử con vua Tịnh Phạn, đã bỏ cung vàng điện ngọc ra đi tìm đạo.

Câu chuyện tuyệt vời này Thầy đã từng kể cho chúng con nghe nhưng năm xưa ấy, với lứa tuổi lên chín, lên mười, đám trẻ nhỏ trong xóm nghèo đâu có thấy hấp dẫn bằng chuyện Thạch Sanh-Lý Thông, Tấm Cám, Phạm Công-Cúc Hoa ..... với những tình tiết ly kỳ, những thắt mở hồi hộp hơn. Tuy thế, đám thiếu nhi Phật tử chúng con siêng đi chùa lắm vì tới chùa được bác Sáu cho oản chuối, được huynh Thiện Tâm dạy hát, dạy tụng kinh. Riêng hai chị em con, cứ cơm nước buổi tối xong là vào chùa vì chùa gần quá, qua nhà bà Hai bán gạo, nhà ông Năm xích lô, qua vườn rau của cô Bẩy thư ký, tới tiệm chạp phô chú Lìn là nhìn thấy mái chùa. Chùa nghèo lắm, hàng rào gỗ xiêu vẹo đã lâu, huynh Thiện Tâm chắp vá mãi vẫn xiêu vẹo, nói chi đến sơn lại những bờ tường rêu phong, loang lổ. Nhưng đất chùa rộng nên bác Sáu trồng đủ các loại rau, các loại bầu bí làm thực phẩm cho chùa; Rồi không biết do đâu, người trong xóm thấy rau trái nhiều đã tới xin mua lại khi họ cần. Bác Sáu đâu có bán! Bác Sáu bảo, ai cần thì cứ vào mà hái, cửa chùa có đóng bao giờ đâu.

Chùa nghèo, dân trong xóm cũng nghèo nhưng ai vào chùa xin rau trái đều nhẹ nhàng bỏ vào thùng phước sương ít nhiều, tùy theo khả năng mình. Thật thân thương biết bao tình người, nghĩa đạo. Chùa nghèo như thế mà bác Sáu đã bế vào chùa hai đứa bé mồ côi mà cha mẹ chúng bỏ trước sân chùa. Hai đứa bé đó là hai chú tiểu mà bác Sáu gọi tên là Tốt và Lành. Ngày đó, con cũng còn quá nhỏ, đâu có thắc mắc sao hai chú không có pháp danh đẹp đẽ  như Thiện Tâm, Thiện Hữu, Thiện Tường ...... mà lại là Tốt, Lành" Hoặc hai chú cũng có mà con chưa bao giờ nghe " Nhưng chúng con thì được Thầy và bác Sáu gọi bằng pháp danh ngay sau khi quy y. Quy y là gì " Thuở ấy con nào hiểu, chỉ biết rằng, nhằm lễ Vu Lan, huynh Thiện Tâm bảo "Các em quy y với Thầy đi, các em sẽ chính thức là con của Phật, Thầy sẽ cho các em một cái tên mới, như khi cha mẹ sinh con ra đều đặt tên cho các con vậy".

Con biết chị Tư bán xôi có pháp danh là Diệu Hương, chị Chín thợ may có pháp danh là Diệu Liên v... v... nên con nghe lời huynh Thiện Tâm, xin quy y cũng chỉ vì muốn được thầy cho một cái tên đẹp đẽ mà thôi! Ôi, tuổi nhỏ thơ ngây thật là tội lỗi!

Nào phải con chỉ không thắc mắc pháp danh của hai chú tiểu mà pháp danh của Thầy con cũng không hề biết! Bác Sáu là chị, thầy là em. Trong xóm gọi thầy là thầy Bẩy, chúng con cũng chỉ biết thế. Vào chùa chỉ biết vòng tay thưa "Lạy Thầy ạ". Thế thôi!

Sau khi chúng con quy y không bao lâu thì xóm nghèo đó ngập trong biển lửa vì nội chiến giữa lực lượng Bình Xuyên với chính quyền đương thời. Cà xóm đều chạy thoát nhưng tan tác muôn phương. Với bận rộn của tuổi học trò, với những sân ga, những bến đậu, những vui buồn của giòng sông tục lụy, con đã không hề trở lại xóm xưa, không biết Thầy đã đi đâu, về đâu!!!

Nửa thế kỷ đã trôi qua, nửa thế kỷ như một sát-na của kiếp sống, ở phút giây nào kỳ diệu đã bừng lên hai chữ "Diệu Trân" tận thẳm sâu tiềm thức. Khi bỗng chợt nhớ lại pháp danh của mình, con đã bật khóc nức nở, không phải chỉ khóc một lúc mà khóc một đêm, một ngày, nhiều đêm, nhiều ngày. Bất cứ biết có người quen nào về thăm quê hương, con đều nhờ tìm Thầy. Chùa xưa dù đã dựng lại sau hỏa hoạn nhưng Thầy không trụ ở đó nữa.

Chưa tuyệt vọng, con lại nhờ tìm tông tích huynh Thiện Tâm nhưng huynh đã về quê xa xôi làm rẫy! Thầy như bóng chim bay ngang lưng trời, không để lại dấu vết gì, chỉ còn lại trong con hai chữ "Diệu Trân", quằn quại tâm sám hối, không biết phải làm gì để đền đáp ơn Thầy"

Nơi xứ người, con khoác tấm áo lam lên thân tứ đại, tìm đến các chùa, làm công quả, từ xắt bí, gọt khoai, rửa chén bát,  tới lau chùi nhà vệ sinh, quét dọn, đổ rác ...... Con im lặng làm việc mà trong lòng không ngớt nức nở hai tiếng "Thầy ơi!". Con sợ nhất là khi thỉnh thoảng có người bạn đạo vô tình hỏi "Thầy Bổn-sư của Diệu Trân là ai"" hay "Tổ-đình Diệu Trân ở đâu"" con đều không kịp kìm giữ giòng nước mắt rào rạt trôi lăn. Một kẻ tự nhận là Phật tử mà không biết pháp danh của Thầy Bổn-sư, không biết Thầy nơi đâu, Tổ-đình nơi đâu, thì có xứng đáng là con Phật hay không"

Xong những công việc chấp tác, con mon men lên chánh điện, tìm một chỗ ngồi khiêm nhường nhất để được nghe giảng pháp. Giòng-Suối-Từ thầm lặng thẩm thấu vào sa-mạc mênh mông khổ não trong con, tới một ngày con bỗng hiểu rằng Thầy không chỉ là hình bóng Thầy Bẩy trụ trì ngôi chùa trong xóm nghèo mà Thầy còn là thời công-phu-sáng, thời kinh-trưa, thời thiền lặng lẽ khi trăng khuya bàng bạc bên khung cửa sổ. Thầy cũng là lời con phát nguyện khi tụng kinh Pháp-Hoa:

"Con nay phát nguyện rộng

Thọ trì kinh Pháp-Hoa

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ tam-đồ"

là bài kệ sáng ngời khi con tụng kinh Kim-Cang:

"Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào ảnh

Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán"

là bài tán Hội Liên-Trì khi con tụng kinh A-Di-Đà:

"Liên-Trì hải hội

Di Đà Như-Lai

Quan Âm Thế Chí tọa Liên-đài

Tiếp dẫn Thượng-kim-giai

Đại thệ hoằng khai

Phổ nguyện li trần ai"

là phút Quán Không, khi con tụng kinh Bát-Nhã, là Viên-Giác, Lăng-Nghiêm, Đại-Bảo-Đàn...Thầy vẫn ở cùng con trên từng lời Phật dạy. Thầy là người cha đã khai sinh ra con từ một bông hoa đặt nhẹ trên đỉnh đầu trong không gian tưới tẩm hương Vu Lan năm đó. Thầy nào có xa rời con" Thầy nào ngưng dạy dỗ" Chính Thầy đang dắt con tới từng đạo tràng, dạy con biết cách cúng dường, biết cách tu thân, biết nhận ra lỗi lầm, biết nhẫn nhục, biết tha thứ. Sao bấy lâu nay con không nhìn ra mà cứ đau khổ quằn quại "Thầy ơi! Thầy đâu"" trong tâm trạng đứa con lạc cha! Suốt nửa thế kỷ qua, con nào khác chi kẻ cùng tử trong phẩm "Tín Giải", kinh Pháp-Hoa, không nhận ra cha mình dù cha đang ở trước mặt.

Thưa Thầy,

Thầy đã quá từ bi và kiên trì đối với một đệ tử vô minh tột cùng như con. Phải nửa thế kỷ, tấm màn vô minh mới hé cho con chút ánh sáng. Không thể tình cờ người bệnh chợt khỏe, trẻ nhỏ chợt lớn. mà chắc chắn phải có sự chăm sóc, nuôi dưỡng dưới hình thức nào đó.

Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẫy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con trong mùa Vu Lan năm nào và nói: "Pháp danh con là Diệu Trân". Cảm xúc kỳ diệu đó, mãi đến ngày nay con mới cảm nhận được. Con xin tạ ơn Thầy, Thầy Bổn-sư của con. Trong mầu nhiệm của những điều không thể dẫn giải bằng lý trí, con nay tin chắc rằng Thầy đã không ngừng dạy dỗ con. Ngay cả những người chỉ sống bằng lý trí, tuyệt đối không tin những gì mà họ không nhìn, nghe, sờ mó được, họ đều quên rằng họ có nhìn, nghe, sờ mó được không khí đâu! Nhưng họ đã không thể chối bỏ sự hiện hữu của không khí trong mênh mông vũ trụ này.

Viết thư này cho Thầy, con tưởng rằng sẽ lại khóc tầm tã như những lá-thư không-gửi trước. Nhưng Thầy ơi, con đang nghe được tiếng bầy sẻ lao xao bên bờ tường. Chúng không ríu rít ca ngâm như mấy ông bà thi sỹ tưởng tượng mà chúng đang gọi con, chỉ để xin cơm nguội. Con mang cơm cho chúng hàng ngày, con biết rõ mà. Những cây bưởi đang đơm hoa cũng kêu khát nước, con nghe từng nhánh lá réo gọi dưới nắng hè chói chang; và những bông súng đang kèn cựa, xô đẩy những nụ sen đầu mùa rất thư thả mà vững chãi, nhô lên khỏi mặt nước. Thầy đang dạy con những bài học khó hơn, phải quán tưởng sâu sa hơn, lắng tâm tĩnh lặng hơn, mới giao cảm được sự chia xẻ thân thương cùng vạn hữu quanh ta. Khi nhận được điều đó, ta sẽ không còn cô đơn nữa.

Thưa Thầy,

Từ nay con đã có câu trả lời khi các bạn đạo hỏi:

- Thầy Bổn-sư của Diệu Trân là ai"

- Thưa, Thầy Bổn-sư của tôi là những vị dạy tôi biết nhận ra Phật tánh của mình.

- Tổ-đình của Diệu Trân ở đâu"

- Thưa, Tổ-đình của tôi là nơi Phật Pháp được rao giảng, như tinh thần phẩm "Hiện Bảo Tháp" trong kinh Pháp-Hoa, Phật Đa Bảo đã phát nguyện: "Nơi đâu có vị Phật thuyết kinh Pháp-Hoa, tôi sẽ hiện tháp nơi đó để tán thán".       

Trong không gian thơm ngát hương đạo vị, con cảm nhận rất rõ Thầy vừa dạy con điều ấy.

Con xin quỳ xuống, kính cẩn năm vóc tạ ơn Thầy.

Đệ tử của Thầy

Diệu Trân

(An Cư Kiết Hạ 2006)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
Một nhóm khoa học giả quốc tế đã thấy bằng chứng lâu đời nhất về cà ri bên ngoài Ấn Độ và cho thấy ý nghĩa lịch sử của hành trình mà các thành phần gia vị này đã trải qua để đến đó. Các nhà nghiên cứu từ Úc, Việt Nam và Trung Quốc đã tìm thấy món ăn này – được biết đến với hương vị cay nồng của đất, có nguồn gốc từ Nam Á và hiện đã phổ biến trên toàn cầu – có lẽ đã được đưa đến bàn ăn của người Việt Nam hơn 1800 năm trước nhờ mạng lưới thương mại hàng hải.
Ở Hoa Kỳ, khi ai đó qua đời, thường thì họ sẽ được ướp xác, đặt trong quan tài và chôn cất tại nghĩa trang (thổ táng), hoặc mang đi hỏa táng, phần tro cốt sẽ được trả lại cho gia đình, người thân. Tuy nhiên, thổ táng và hỏa táng nay đã không phải là các lựa chọn duy nhất. Ngày càng có nhiều nhà tang lễ, cả các công ty khởi nghiệp và tổ chức vô vụ lợi, cung cấp cho mọi người những nghi thức khác nhau dành cho người đã khuất. Trong tương lai, bối cảnh nghi thức tang lễ sẽ đa dạng hơn…
Đã mấy năm nay, một nhóm tên "Sinh viên tranh đấu cho được nhập học công bằng" (Students for Fair Admissions) kiện Đại Học Harvard về tình trạng mà họ cho là bất công lúc xét các ứng viên Á châu nộp đơn vào trường đại học ưu tú này của Mỹ. Nhóm này cho rằng Harvard thực hành “affirmative action” (hành động khẳng định) và "racial balancing" (quân bình chủng tộc) trong quá trình quyết định ai được nhận ai bị từ chối. Nếu không, theo họ, nếu chỉ căn cứ trên thành tích học tập (academics) tỷ lệ sinh viên Á châu được nhận sẽ là 43% tổng số, hay ít lắm 26% nếu xét thêm về hoạt động ngoại khóa, thể thao hay gia đình quen biết với trường ("legacy"); chứ không thấp như mức 18.7% như hiện nay.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.