Hôm nay,  

Gặp Gỡ Cuối Năm

25/04/200200:00:00(Xem: 5020)
Nhà văn Guenter Grass, khi Đức quốc còn bị chia đôi - bởi vì tên ông luôn được nhắc tới, ròng rã trên hai thập kỷ - ông vẫn thường tự hỏi, tại sao không chia giải thưởng Nobel, cho hai nhà văn thuộc hai miền của một đất nước bị chia cắt, cho Christa Wolf, và tôi" Và, "hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc…", khi mấy ông Hàn Thụy điển đóng kín cửa phòng lo tranh cãi, bàn bạc, Guenter Grass bảo cô thư ký, họ lại ỳ ra thôi, và chúng ta sẽ có một mùa thu tuyệt vời!

Khi nghe tin được giải, ông nhắc lại đề nghị, nhưng mấy ông Hàn lắc đầu.

Và ông kết luận: may mắn thay, cả hai chúng tôi đều sống sót.

Grass cho rằng, cũng như ông, Wolf, bằng tác phẩm đã cố gắng ngăn chặn một sự "chia cắt vĩnh viễn" nước Đức. Tình bạn và sự kính mến giữa hai người, đã có từ nhiều năm. Nhân dịp sinh nhật thứ 70 của ông, Wolf đã viết thư chúc mừng, kể kỷ niệm, về cảm giác lúc nào cũng thấy ông hiện diện, nhưng không đâu bằng, ở Dantzig-Gdansk. "Bạn đã 70 tuổi rồi. Không có bạn, tôi không thể nào tưởng tượng ra được phong cảnh văn hóa Đức. Hãy cứ khỏe mạnh. Và hãy lấy cái ống vố ra khỏi miệng nhé!"

Theo Grass, sau chiến tranh và suốt chiến tranh lạnh, nước Đức bị tuyệt đối chia cắt về kinh tế, ý thức hệ, quân sự, nhưng hai nền văn chương, không bao giờ bị đứt đoạn. Trong bài phỏng vấn trên tờ Magazine Littéraire, sau khi được Nobel, ông nhớ lại những chuyến vượt bức tường qua Đông Bá Linh gặp bạn văn, trong những căn hộ ấm cúng, khi ra về trời đã khuya, vui như Tết, hồn thoáng chút hơi men, và tội nghiệp cho mấy tay mật vụ suốt buổi ở bên ngoài trời lạnh!

Người viết cứ luẩn quẩn với những điều Grass viết, nhân chuyến gặp gỡ ông bạn cũ Huỳnh Phan Anh, ở nơi xứ người. Bên chai rượu đỏ, tại sao chúng tôi không có quyền đi một đường cảm khái: may mắn thay, cả hai vẫn còn sống!

Nhưng gặp ở đâu, chứ ở Paris thì còn ca cẩm gì nữa!

Huỳnh Phan Anh, sau 1975, có vẻ như không gặp rắc rối gì nhiều với chế độ mới. Nhưng có lẽ đó chỉ là bề mặt của câu chuyện. Lần đầu tiên, anh cho biết, vợ và hai con gặp tai nạn khi vượt biển. Tôi đã được nghe, cũng chỉ có vậy, và anh cũng không nói thêm chi tiết, như chỉ muốn xác nhận một chuyện mà bất cứ một người dân Miền Nam nào cũng biết, cũng hiểu. Như chỉ muốn xác nhận, tao vẫn vậy, vẫn "dur" (cứng rắn), như ngày nào. Và anh quyết định cho cháu gái may mắn, không có mặt vào giờ chót ở chuyến trước, đi chuyến liền sau đó. Bà chị lớn hiện ở Mỹ, nhân dịp này đi cùng cháu gái qua Paris thăm anh. Tôi hỏi về cô em gái, tên Như, trong nhà gọi Bé. "Nó ở Đức. Cả nhà tao vẫn mến mày như ngày nào." Cô em, bây giờ đã có gia đình, vậy mà vẫn chưa quên, cái cảm giác sững sờ, khi nhờ bạn ông anh giải giùm một bài toán hắc búa. "Nó nói, chưa bao giờ gặp một người giỏi toán như vậy!"

Cô Bé này, học cùng lớp với "cô bé" của tôi, những năm đầu trung học. Anh bạn chắc vì thương tình, không nhắc chuyện, khi em anh đọc truyện tôi, về cái cảnh thất thểu chạy theo "cô bé" nơi cổng trường Đại Học Khoa Học...

"Nó đọc và khóc vùi! Đúng là cải lương!", anh kết luận, về văn chương của tôi!

Bạn cứ thử tưởng tượng, hai thằng bạn văn, người Việt, sau cuộc chiến 30 năm vui sao nước mắt lại trào, sau thống nhất 29 năm (lúc này trên tháp Eiffeil, là dòng chữ tiếng Pháp 59 ngày trước năm 2000), vậy mà muốn gặp nhau phải... hẹn hò ở Paris!

Nhờ hên thôi, anh nói. Qua mấy ngày gặp, anh vẫn còn "nắc nỏm", tao không thể tưởng tượng, có ngày lang thang ở Paris!

Anh cho biết, chỉ riêng năm vừa qua, có 10 đầu sách xuất bản, toàn là sách dịch. Tôi hỏi về tin, anh được nhà thơ Pháp Yves Bonnefoy, với tư cách cá nhân, bỏ tiền túi ra mời anh qua thăm Paris. (Anh có dịch một tuyển tập thơ của ông Tây này, xuất bản dưới dạng song ngữ). Anh nói, "lúy" có viết thư, gợi ý hai lần, nhưng tao không ưng (thấy ngại quá!). Chuyến đi này, là do một tay Tùy Viên Sách (Attaché du Livre) của Tòa Đại Sứ Pháp. Đề nghị lâu rồi, không đi được, không phải nhà nước ngăn cấm, mà vì không đào đâu ra tiền giấy máy bay. Cuối cùng người tùy viên tốt bụïng lại phải lo giùm thêm khoản này.

Huỳnh Phan Anh được học bổng đi Pháp ba tháng, nghiên cứu về "trường" (champ) dịch thuật. Nghe nói, giới dịch thuật "chính thức" trong nước có vẻ "bực" (hay nực") vì chuyện này. Nhưng đây là tại "thằng Tây" nó muốn cho ai thì cho chứ mắc mớ gì tới chuyện Nam Bắc kỳ, chia để trị, (văn sĩ) chính thống hay tề ngụy!

Lớp học trò chúng tôi, đa số biết Paris qua... Thanh Tịnh. Con đường tới Paris bắt đầu bằng cảnh: mẹ tôi âu yếm dẫn tay tôi trên con đường làng, tôi vẫn quen đi lại nhiều lần, nhưng lần này tôi thấy lạ. Con đường làng Việt Nam dẫn hai đứa chúng tôi tới những lối đi nơi vườn Lục Xâm Bảo, và bầu trời hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc của Thanh Tịnh, bỗng lẫn vào bầu trời chập chùng Mùa Thu Paris, những chiếc lá vàng rơi trên những pho tượng trần, những bữa cơm tối ăn dưới ánh đèn... ôi chao, tôi lại thấy cảnh này, ở nơi vườn Bờ Rô Sài Gòn, những ngày quen cô bé...

Thanh Tịnh, là của thời con nít. Gần gụi hơn, là những câu thơ, thí dụ như "hãy cho anh một tí Paris, để anh làm thi sĩ...", (mô phỏng thơ Thanh Tâm Tuyền), hoặc "ga Lyon đèn vàng..." của Cung Trầm Tưởng.... hay là những trang nhật ký của Roquentin, mùi củi ướt tại một xưởng thợ, và câu văn khép lại cuốn Buồn Nôn của Sartre: Ngày mai trời sẽ mưa trên thành phố Bouville. Chúng đã khiến cho những chiếc lá của Anatole France trên một con đường làng Việt Nam đột ngột sống lại, cùng với thời mới lớn của lũ chúng tôi.

Không biết Thanh Tâm Tuyền đã làm một chuyến ngao du "Về Miền Tây" nào chưa, nhưng thay vì một tí Paris, là những dòng thơ ở giữa chiến tranh và trại tù. Còn nhớ, những ngày đài phát thanh Sài Gòn, bằng một cái giọng thật ư là đều đều, đọc danh sách những người phải trình diện, tôi bảo ông, bữa trước có nghe tên một người bạn của anh..., ông vỗ đùi đánh đét, thế là sắp tới tao rồi! Thanh Tâm Tuyền trước đó đã mất hai năm lính, vừa được giải ngũ ít lâu thì xẩy ra vụ Mậu Thân, và sau đó là lệnh Tổng Động Viên. Hồi còn la cà ở Quán Cái Chùa, đường Tự Do Sài Gòn, tôi và Huỳnh Phan Anh hay được dịp ngồi chung bàn với ông. Huỳnh Phan Anh cho biết, sau khi ông đi cải tạo về, có gặp, và một lần có kéo ông tới một "căng-tin", làm vài hơi bia. Trong số những cô gái phục vụ, có một cô rất mê thơ Thanh Tâm Tuyền. Bài hát tủ của cô: Lệ Đá Xanh. Cô bé thật tình muốn trổ tài trước nhà thơ, nhưng ông lắc đầu. Tôi nghĩ thầm: sau một trận tù dài như thế, vừa mới về nhà gặp vợ gặp con chưa hoàn hồn làm sao mà Giang Châu Tư Mã đầm đìa áo xanh cho được!

Chưa hoàn hồn... tôi lại nhớ tới một "tục lệ" của người dân ngoài Bắc, mà tôi đã được trải qua. Lần đó, mê chơi bi, hòn bi lăn mãi tít vô gầm chiếc rương lớn chứa thóc. Lui cui bò vô, hai chiếc mễ gỗ quá mục, sụp xuống, chiếc rương thóc đè lên thằng nhỏ. Người lớn lôi ra, thằng bé ngơ ngác, mắt lé xệch. Mấy người lớn tuổi nói: nắm cho nó mấy nắm cơm đi, để chuộc lại ba hồn bẩy vía.

Lại nói chuyện dịch. Huỳnh Phan Anh "khoe", nếu mày về Sài Gòn, vào tiệm sách, là thấy sách của tao bầy la liệt...

Anh dịch khủng khiếp thật! Trước 1975, cuốn "đắc ý" của anh, có lẽ là "Ca Ngợi Triết Học", dịch Merleau-Ponty, một trong hai người chủ trương tờ Thời Mới. Sartre ca ngợi bạn, trong khi ông còn mê mải với hiện sinh, Merleau-Ponty đã bước qua hiện tượng luận. Ông còn là một trong những chuyên gia "nghiêm túc" về chủ nghĩa Cộng Sản, và đã tìm ra những mắt xích dễ gẫy của nó. Không hiểu vào những năm 1960, trước bóng ma của một chiến thắng của Miền Bắc, anh bạn tôi khi dịch Ca Ngợi Triết Học, có nghĩ tới những dòng của Merleau-Ponty, trong cuốn Ký Hiệu (Signes, 1960): "Chủ nghĩa Mác-xít tìm thấy trong lịch sử, những thảm kịch trừu tượng về Hữu thể và Hư vô và đặt vào đó, một gánh nặng siêu hình lớn lao; điều này đúng, vì nó nghĩ tới bộ khung, tới kiến trúc tính của lịch sử, tới sự xen lấn, bổ sung, giữa vật chất và tinh thần, giữa con người và thiên nhiên, giữa hiện hữu và ý thức, trong khi triết học chỉ đưa ra một bài toán đại số, và bản thiết kế. Thu tóm toàn bộ nguồn gốc nhân loại, chính trị cách mạng đi qua trung tâm siêu hình này. Nhưng trong thời kỳ gần đây, chính trị chỉ là thủ đoạn, một chuỗi đứt đoạn những hành động, những giai đoạn không có ngày mai, và người ta 'buộc' vào đó tất cả những hình thức của tinh thần và cuộc sống. Thay vì nối kết những đức hạnh, triết học và chính trị chỉ trao đổi cho nhau những cái xấu: người ta có, một thực hành quỉ quyệt và một tư tưởng mê tín". Là một người ở trong nước, chắc chắn là anh có thẩm quyền hơn tôi, để nói về quỉ quyệt và mê tín.

(Anh than, về chuyện giới viết lách ở trong nước coi anh là một trong những người sống bằng ngòi bút: cần tiền quá!)


Trong một bài viết cho tờ Việt ở Úc, người viết có đưa đề nghị, cái dịch là cái mới, và cái mới nằm trong cách người viết, người đọc trân trọng một bản văn, khi nó được chuyển dịch ra khỏi nơi chốn, thời gian "thực" của nó, thí dụ như dòng văn chương hải ngoại chẳng hạn, vốn được viết bởi những người Việt phải từ bỏ quê hương, ở khắp nơi trên mặt đất, tụ lại với nhau qua "bản văn tiếng Việt". Nhìn theo viễn tượng đó, với riêng tôi, dịch thuật là... cánh cửa mở vào thiên niên kỷ đối với chúng ta.

Gerald. L. Bruns, trong bài viết "On Difficulty: Steiner, Heidegger, and Paul Celan" (1) - kinh nghiệm của cả ba đều liên quan tới Nazi, tới Lò Thiêu - cho rằng chỉ những kẻ bị tống xuất, bị ruồng bỏ (outcasts), những kẻ lang thang vất vưởng (wanderers), nếu không muốn nói, chỉ những thi sĩ, mới có thể trở thành những dịch giả số một. Tại sao vậy"

Tác giả đặt câu hỏi: Điều gì làm cho một bản văn (hay bất cứ một cái gì khác) cưỡng lại mọi cố gắng nhằm hiểu nó" Theo ông, đây là kinh nghiệm cơ bản đối với người dịch. Và là một kinh nghiệm vừa mang tính đạo hạnh, vừa bỏ ngỏ: "anh này (one) cố gắng lột trần anh kia (the other), bằng một ngôn ngữ, ở bên trong khung văn hóa riêng, nhưng anh kia không thể nào bị biến thành đối vật theo kiểu này, bởi vì anh (cũng lại) thuộc về thế giới riêng, và không thể bị bứng lên mà không phải dùng tới vũ lực. Cổ đại La-tinh hiểu điều này, khi gắn dịch với chiến thắng những thành phố, bắt nô lệ, và cướp bóc của cải."

"Nói ngắn gọn, đây là sự thành lập đế quốc."

Nhưng dịch có những hậu quả không thể kiểm soát được. Gần mực thì đen, chơi dao có ngày đứt tay: người dịch phải đối đầu với một điều vượt ra ngoài căn cước, bản sắc riêng. Hậu quả là, theo Steiner, "cái kia" (the otherness) chui vào bên trong chúng ta, làm cho chúng ta thành kẻ khác.... Chẳng thể có dịch thuật, ngoại trừ dưới điều kiện khủng hoảng tri thức luận (There can be no translation except under conditions of epistemological crisis). Nhìn như thế mới thấy một sự thực cay đắng chua chát: chỉ mấy anh/mấy chị xẩy nhà ra thất thổ, mất quê hương, sống đầu đường xó chợ, mất mẹ căn cước mẹ đẻ, mới hiểu thế nào là dịch thuật: chiếm tiếng người làm tiếng mình!

Trường hợp dịch của ông bạn tôi, có thể giải thích, bằng nhận định của G. Grass. Phản ứng trước hiện tượng "không giờ" của văn chương (hãy chui vào tháp ngà, hãy nói chuyêän cái mỹ, hãy làm đao phủ thiền....), ông tuyên bố: kẻ nào muốn thống nhất nước Đức, kẻ ấy phải ôm riết lấy (lò thiêu) Auschwitz.

Điều này giải thích tại sao, trong cuốn sách vừa mới xuất bản tại Việt Nam ("Tao đi đây, phải nhắn họ mang tiền nhuận bút tới cho bà xã ở nhà"), "Không gian, Khoảnh khắc Văn chương" (Tiểu luận-Phê bình, người biên tập Lại Nguyên Ân, nhà xb Hội Nhà Văn, 1999), không nói tới những tác giả đã qua đời như Tản Đà, Nhất Linh, Đinh Hùng, giữa những tên tuổi như J.M.G. Clezio, Claude Simon, Heinrich Boll... bạn tôi đặt vào, chỉ một tác giả Việt Nam, "mới": Phan Thị Vàng Anh.

Đây là một cuốn sách thâu gom những bài viết phê bình, tiểu luận, rải rác trước và sau 1975. Huỳnh Phan Anh cho biết, cũng phải nhờ một nhà phê bình thuộc diện nhà nước, cuốn sách mới ra được: "Mày thấy không, một tác giả chuyên về 'hư vô' như tao, sống giữa một xã hội 'không hư vô' một chút nào, với những bài viết từ trước 1975, đấy không phải là một dấu hiệu đáng mừng của 'văn chương' hay sao""

Một dấu hiệu đáng mừng, liệu người ta có thể nhận ra nó, khi đọc Phan Thị Vàng Anh"

Một trùng hợp khá thú vị: Đọc Vàng Anh, tôi cũng liên tưởng tới Francoise Sagan, nhưng không hẳn như Huỳnh Phan Anh nhận xét: "Họ (những nhân vật trẻ tuổi của Phan thị Vàng Anh) đáng yêu hơn những nhân vật của Sagan mà người đọc có thể liên tưởng tới khi đọc Vàng Anh bởi sự buồn nản; sự nổi loạn không đẩy họ tới những buông thả, phá phách, suồng sã, mù quáng một cách vô duyên cớ, đặc trưng của một tuổi trẻ nào khác, ở một nơi nào khác."

Phan Thị Vàng Anh, theo tôi, cũng nằm trong hiện tượng "không giờ" của văn chương. Ở đây, còn có sự nuông chiều (một trong những hậu duệ, của "con cưng" chế độ). Có sự õng ẹo, với văn chương chữ nghĩa. Với tuổi trẻ. Với cái nhìn xuống, khi bóng gió xa xôi, về nỗi cơ cực của những con người quanh "cô bé". Cô bé đôi lúc cũng đăm chiêu về phận người, theo kiểu "Buồn Ơi, Chào mi!" của Sagan.

Khi "Buồn ơi…" xuất hiện tại Pháp, người ta chào đón nó như một loài chim quí. Với Vàng Anh, một loài chim quí, để nuôi trong lồng, như một dấu hiệu đẹp đẽ về một chế độ không đẹp đẽ. Giới phê bình Tây Phương cũng đã nhận ra điều này với bao nhiêu tác phẩm của Sagan: trong bao nhiêu năm, người Pháp đã giữ riêng cho họ, một người tình.

Nhưng xã hội Tây Phương (nước Pháp), khi Sagan mô tả, là những năm kinh tế khá ổn định, và giới tính đang được mùa.

Có còn hơn không. Khi Sagan được đón nhận, "như một con chim hiếm", người ta biết, cái khí hậu văn chương hiện sinh cần một thái độ đạo đức-phi đạo đức như vậy. Cũng cần phải phân biệt, phi đạo đức khác với vô đạo đức. Phi đạo đức, một cách nào đó, là treo lửng đạo đức bên trên ngòi bút. Với Vàng Anh, độc giả trong nước có một cô bé õng ẹo, giữa một đám đao phủ đang ngồi thiền là thế hệ cha chú của cô. Vậy cũng là dấu hiệu đáng mừng rồi! Huỳnh Phan Anh đã nhận ra điều này, nhưng ông nói, với một sự châm chước, của một người đã lớn tuổi: "Có lẽ họ nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc sống".

[Vàng Anh là con gái nhà thơ Chế Lan Viên. Nghe nói, những bản viết đầu tay của cô là do bố sửa sang, đánh bóng lại. Một anh bạn cho biết, trong một truyện ngắn viết về người bố, sau khi mất được hỏa thiêu, nhìn hũ tro cốt, "cái còn lại" của một đời người cúc cung với chế độ, cô cay đắng hỏi chủ nghĩa, hỏi chế độ, hỏi đời, hỏi chính mình, "Chỉ có thế thôi à""]

(http://www.saomai.org/~tinvan/unicode/index.html )

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hai trăm năm rưỡi sau ngày dựng cờ độc lập, nước Mỹ vẫn chưa thoát khỏi chiếc bóng của bạo lực. Mỗi khi một viên đạn nổ, người ta lại nói: “Đây không phải là nước Mỹ.” Nhưng chính câu nói ấy lại là cách người Mỹ tránh nhìn thẳng vào chính mình. Bài viết của giáo sư Maurizio Valsania (Đại học Torino), đăng trên The Conversation ngày 12 tháng 9, 2025, nhắc lại lịch sử mà nhiều người muốn quên: từ nhựa đường và lông gà đến súng ngắn buổi bình minh — một mạch dài nối liền hai thế kỷ, nơi tự do và bạo lực chảy cùng dòng máu.
Một cuộc thăm dò dư luận của AP-NORC thực hiện vào tháng 9 & 10 cho thấy hầu hết dân Mỹ coi việc chính phủ đóng cửa hiện tại là một vấn đề nghiêm trọng và đổ lỗi cho cả hai Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ và cả Tổng Thống Trump với những tỷ lệ gần như ngang nhau. Cuộc thăm dò cũng cho thấy người Mỹ lo lắng về kinh tế, lạm phát và bảo đảm việc làm. Họ đang giảm những chi tiêu không thiết yếu như quần áo và nhiên liệu. Đa số cho rằng nền kinh tế yếu kém. Chi phí thực phẩm, nhà ở và chăm sóc sức khỏe được coi là những nguồn chính gây khó khăn tài chính.
Trên cao nguyên Tây Tạng – vùng đất được mệnh danh là “nóc thế giới” – hàng triệu tấm pin mặt trời trải rộng đến tận chân trời, phủ kín 420 cây số vuông, tức hơn bảy lần diện tích đảo Manhattan. Tại đây, ánh nắng gay gắt của không khí loãng ở độ cao gần 10.000 bộ trở thành mỏ năng lượng khổng lồ cho Trung Hoa. Giữa thảo nguyên lạnh và khô, những hàng trụ gió nối dài trên triền núi, các con đập chắn ngang dòng sông sâu, cùng đường dây cao thế băng qua sa mạc, hợp thành một mạng lưới năng lượng sạch lớn nhất thế giới. Tất cả đổ về đồng bằng duyên hải, cung cấp điện cho các thành phố và khu kỹ nghệ cách xa hơn 1.600 cây số.
Mức asen cao được phát hiện trên sông Mê Kông, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm kim loại nặng lan rộng ở Đông Nam Á. Các sông Mã, Chu và Lam của Việt Nam đang bị đe dọa bởi hoạt động khai thác đất hiếm ở Lào, tác động đến nguồn nước của hàng chục triệu người và di sản cổ đại văn hóa Đông Sơn. Việt Nam cần phối hợp ngoại giao, giám sát khoa học và vận động cộng đồng để bảo vệ các dòng sông này. Khác với sông Mê Kông được giám sát và hợp tác thông qua Ủy hội Sông Mê Kông (MRC), các dòng sông Mã, Chu và Lam lại không có bất kỳ hiệp ước quốc tế nào. Do đó, Lào và đối tác Trung Quốc không có nghĩa vụ pháp lý phải giảm thiểu ô nhiễm xuyên biên giới. Sự thiếu vắng các thỏa thuận ràng buộc này đòi hỏi Việt Nam phải hành động bảo vệ dân cư và sinh mệnh các dòng sông này
Tuần lễ Nobel năm 2025 đã khởi đầu tại Stockholm với giải thưởng đầu tiên thuộc lĩnh vực sinh lý học hoặc y khoa, mở màn cho chuỗi công bố kéo dài đến ngày 13 tháng Mười. Ba nhà khoa học Mary Brunkow, Fred Ramsdell và Shimon Sakaguchi được trao Giải Nobel Y khoa 2025 cho công trình “khám phá cơ chế dung nạp miễn dịch ngoại vi”, nền tảng của nhiều hướng nghiên cứu mới trong điều trị ung thư và bệnh tự miễn nhiễm. Các giải thưởng còn lại sẽ được công bố như sau: - 7 tháng Mười: Vật lý - 8 tháng Mười: Hóa học - 9 tháng Mười: Văn chương - 10 tháng Mười: Hòa bình - 13 tháng Mười: Kinh tế học
Từ tháng 11/2000 đến nay, chưa từng có một ngày nào mà con người vắng bóng ngoài quỹ đạo Trái đất. Trạm Không Gian Quốc Tế International Space Station (ISS) đã duy trì sự hiện diện liên tục suốt 25 năm, với ít nhất một phi hành gia Hoa Kỳ thường trực trên quỹ đạo thấp. Trong lịch sử bay vào vũ trụ, hiếm có thành tựu nào sánh bằng ISS: một công trình chung của Hoa Kỳ, châu Âu, Canada, Nhật Bản và Nga – biểu tượng của sự hợp tác vượt lên trên chính trị. Nhưng mọi hành trình đều có hồi kết. Năm 2030, con tàu khổng lồ này sẽ được điều khiển rơi xuống một vùng hẻo lánh ở Thái Bình Dương.
50 năm sau và thêm 8 đời tổng thống Mỹ, tuy Việt Nam nay không còn là quan tâm của đại đa số quần chúng như thời chiến tranh, nhưng một nước Việt Nam thống nhất về địa lý vẫn nằm trong chiến lược của Mỹ và vẫn được các nhà nghiên cứu về chính trị, sử, xã hội, kinh tế, quốc phòng và những nhà hoạt động môi trường, xã hội dân sự, những người tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền quan tâm vì những vấn đề tồn đọng sau chiến tranh và các chính sách của Hà Nội. Những chủ đề liên quan đã được trình bày trong một hội nghị quốc tế tổ chức vào hai ngày 18 và 19/9/2025 tại Đại học U.C. Berkeley với sự tham dự của nhiều học giả, nghiên cứu sinh từ các đại học Hoa Kỳ, Việt Nam, Singapore, Pháp; cùng các cựu lãnh đạo, phóng viên, nhà hoạt động.
Tùy vào diễn biến trong dòng chảy xã hội mà người ta thường hay nhắc hoặc nhớ về một nhân vật nào đó của lịch sử. Ngay lúc này, tôi nhớ về Charlie Charplin – người đàn ông với dáng đi loạng choạng trong đôi giày quá khổ, với cây ba-ton, gương mặt trẻ con, tinh khôi nhưng láu cá, nổi bật với chòm râu “Hitler”, ánh mắt sâu thẳm như vác cả một thế giới trên vai
Con người? Nhân loại? Chúng ta đều biết những nhân vật này từ rất lâu. Họ đến từ một loài vượn đặc biệt có trí thông minh muốn vượt lên con vượn và họ trở thành con người, như nhà khoa học triết gia Charles Darwin đã lập thuyết. Hoặc họ được nặn ra từ đất sét rồi bị đuổi khỏi vườn địa đàng, đi lang thang khắp nơi tạo ra nhân loại như Thánh kinh đã ghi chép. Dù họ đến từ đâu, chúng ta đều phải ca ngợi khả năng tiến bộ không ngừng của họ. Dù họ xấu tính cách nào, hung ác ra sao, điên rồ cách mấy, chúng ta cũng phải ngưỡng mộ ý muốn cao cả của họ: Làm cho con người và đời sống tốt đẹp hơn.
Từ khi trở lại Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Donald Trump đã thực hiện hàng loạt chuyến công du quốc tế. Đằng sau những chuyến đi đó là các thỏa thuận trị giá hàng tỷ MK, những buổi đón tiếp hoàng gia trang trọng, xa hoa, hay “nỗ lực tìm kiếm hòa bình” giữa khủng hoảng và xung đột. Trong khi Trump công du đến các quốc gia khác, Tòa Bạch Ốc cũng liên tục mở cửa đón tiếp các lãnh đạo từ khắp thế giới. Từ Tổng thống El Salvador Nayib Bukele (thăm Washington vào tháng 4) đến Quốc vương Jordan Abdullah II (đến Hoa Kỳ vào tháng 2), và gần đây nhất là hội nghị thượng đỉnh giữa Trump và Putin diễn ra tại Alaska.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.